Mặc dầu Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu đã bị chết một cách thảm bại. Nhưng lịch sử đôi khi thật công bằng. Với độ lùi thời gian 50, càng ngày chân lý và sự thật càng được công khai và rõ ràng… Đất nước do cộng sản quản lý càng sa lầy, càng thối nát thì người ta càng thấy nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam là ưu vượt là tốt đẹp, là đáng sống. Ít lắm ở nơi đây cũng là một mảnh đất lành cho con người trú ngụ và sống xứng đáng con người.
Ngay những sử gia Mỹ cho chí đến những kẻ thù oán TT. Ngô Đình Diệm một cách không khoan nhượng cũng đến lúc cần nghĩ lại và chỉnh sửa lối nhìn một chiều của họ. Ngày nay, người ta phải thừa nhận ông Diệm không là bù nhìn của Mỹ, không là “bè lũ Mỹ-. Diệm”- Ngày nay, càng hiếm có người nào còn có chút lòng, còn chút suy nghĩ so sánh thực trạng đất nước dám công khai chê trách.
Và mọi cố gắng tìm hiểu về Việt Nam Cộng Hòa- nhất là thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hòa-, không thể không bắt đầu bằng Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Và ngay cả thời kỳ sau “chế độ Diệm- không có Diệm”.
Ngày nay nhìn lại giai đoạn ấy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phủ bóng lên tất cả những xung đột tranh cãi, khen chê cũng như những âm mưu thủ đoạn dẫn đưa đến cái chết của ông ấy và sự tan rã của miền Nam Việt Nam.
Cái chết ấy không chấm dứt một giai đoạn lịch sử mà như bóng ma theo đuổi bất cứ ai muốn tìm hiểu con người ông như một ám ảnh không rời. TổngThống Ngô Đình Diệm còn sống mãi… ngay đối với cả những kẻ thù ghét ông thuộc nhiều phía. Cuộc cách mạng lật đổ TT. Ngô Đình Diệm không nhất thiết đưa tới một một sự ổn định như nhiều người mong muốn.
Nó tạo ra sự tan vỡ về thể chế và nhất là sự mất niềm tin vào chủ quyền quốc gia- Và nếu nói cho cùng thì đến lúc đó, miền Nam thực sự có một khoảng trống lãnh đạo không ai thay thế được. Nhiều chính trị gia đủ loại đã có dịp ở vai trò lãnh đạo đã tỏ ra bất lực và yếu kém.
Phần người Mỹ dù có truyền thống dân chủ lâu đời, nhưng khi “xuất cảng” những khái niệm, tự do-dân chủ, khái niệm độc lập-tự chủ thì cho thấy họ đã dẫm đạp lên chính những điều mà họ đòi hỏi nơi các xứ đang mở mang..
Ai cho phép họ cái quyền thay thế, ngay cả âm mưu ám hại một Tổng Thống đương nhiệm bất chấp mọi nguyên tắc ứng xử, bất chấp quyền tự chủ của dân tộc ???
Nhưng ngày nay, phải nhìn nhận có một xu hướng lịch sử như gió đổi chiều.
Một sự đánh giá lại lịch sử, một sự nhìn nhận những ngộ nhận, xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử-con người.
Tầm vóc lịch sử – nhân cách Ngô Đình Diệm – thành quả của nền Đệ Nhất Cộng Hòa trở thành biểu tượng cho một giai đoạn sáng ngời với nhiều oan nghiệt!!!
Ngược lại, lãnh tụ Hồ Chí Minh càng được bôi vẽ thì càng ngày những vết bôi vẽ càng lở loét, để lộ bộ mặt thật của ông ấy…
Theo R. Nixon: “Không giống Hồ, Diệm là một người yêu nước chân chính”. Và mọi so sánh hai nhân vật này là thừa và lố bịch. Quan tâm hàng đầu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là ổn định trật tự. Không thể có một chính quyền mạnh, nếu không chấm dứt tình trạng chia năm xẻ bẩy làm suy yếu quốc gia. Cho nên, việc diệt trừ Bình Xuyên là một việc làm chính đáng của chính quyền, mặc dầu phải trả một giá không nhỏ. Ông Ngô Đình Diệm đang phải tiến hành hai công việc một lúc: Vừa phải ổn định và vừa phát triển một đất nước có chiến tranh đồng thời mong giành được chiến thắng cộng sản.
Danh tiếng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm phần lớn nhờ vào những chương trình cải cách xã hội. Ông là một khuôn mặt được quý mến bởi những người dân thường hơn là những chính khách cả Việt lẫn Mỹ ở Saigòn.(…)
Cái lỗi lầm của chính quyền Keendy là đã ký thỏa ước Trung Lập Lào, mở đường cho cộng sản miền Bắc xâm nhập.. Ông Ngô Đình Diệm đã tỏ bầy sự tuyệt vọng đối với quyết định này của người Mỹ… “Từ nay, đường mòn Hồ Chí Minh trở thành một xa lộ cho sự xâm nhập của Hà Nội, chúng ta đã đặt Hồ Chí Minh ngồi vào cái ghế tài xế trong cuộc chiến tranh Việt Nam”.(..)
‘Diem quyết tâm duy trì độc lập chủ quyền và thường phản bác hoặc không quan tâm đến những ý kiến của các cố vấn người Mỹ. Nói chung, ông tự hào là một người quốc gia không chịu nghe theo những chỉ thị đến từ người Mỹ cũng như trước đây từ phía người Pháp”(1).
“Cái sai lầm thứ ba của chính quyền Kennedy ở miền Nam, năm 1963 là có những bất đồng gia tăng với TT Ngô Đình Diệm và họ đã khuyến khích và ủng hộ cuộc đảo chính quân sự chống lại ông Ngô Đình Diệm với một tên tay sai Mỹ là tướng Trần Thiện Khiêm.. Cái giai đoạn đáng xấu hổ chấm dứt với việc giết ông Ngô Đình Diệm và mở đường cho một giai đoạn chính trị hỗn loạn ở miền Nam và đã buộc chúng ta phải gửi quân lính tham gia vào cuộc chiến tranh…”
Tổng Thống Ngô Đình Diệm ổn định tình hình miền Nam như một hòn đá tảng giữ cho tòa nhà khỏi sụp đổ… Mọi xu hướng chính trị khác biệt phải quy tụ về một mối và ông điều hợp sự khác biệt giữa các nhóm ấy và đặt tất cả các nhóm ấy về vị trí của mình.
Và người ta chỉ hiểu được vai trò quan trọng sống còn của TT. Ngô Đình Diệm một cách rõ ràng sau cái chết của Ông, khi mà toàn thể hệ thống chính trị miền Nam đã sụp đổ(2).
Hình ảnh Ông Ngô Đình Diệm bị các ký giả Tây Phương cùng CSVN mở một mặt trận báo chí gán cho ông đủ thứ như “độc tài gia đình trị, đàn áp phật giáo” thì nay hình ảnh một lãnh tụ đạo đức, tài ba và có lòng yêu nước chân thành- không phải tự nhiên- đã được tưởng niệm khắp nơi trên toàn thế giới- ở những nơi nào có người Việt cư ngụ!
Thật sự giữa hai người lãnh đạo giữa hai miền nay so sánh thì một người đang sống lại và một người đang chìm dần vào dĩ vãng mà người ta có ấn tượng là như thể bị lừa.
Nhưng nếu tìm hiểu thấu đáo, ta sẽ hiểu là do Tổng Thống Ngô Đình Diệm có lập trường kiên định, đặt để chủ quyền độc lập dân tộc lên hàng đầu và lý tưởng chống thực dân Pháp bằng mọi giá mà không có chỗ cho sự thỏa hiệp.
Cái chết đau đớn của TT. Ngô Đình Diệm, nhưng sau khi chết đang trở thành biểu tượng chân chính, một lý tưởng cho người Việt Quốc Gia!
Mặc dầu vậy nơi tấm mộ bia của ông ở Lái Thiêu còn bị che dấu tên thật. Người ta chỉ để tên Thánh Goan Baoxitita-Huynh. Huynh là để chỉ là anh..
Điều ấy đã đến lúc cần phải sửa đổi…
Những người ái mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có lần lập tấm bia mộ ông với tên Ngô Đình Diệm. Bị chính quyền cộng sản đã e ngại và ra lệnh gỡ bỏ tấm bia đó.
Rõ ràng Hà Nội sợ ngay cả một người đã chết- ngay cả một tấm bia mộ- giống như trong trường hợp bức tượng người lính ở Nghĩa trang quân đội ở Biên Hòa trước đây.
Tầm vóc lịch sử của con người ấy nay được nhìn lại và những nhà viết sử trẻ thuộc thế hệ thứ hai như Catton, Jessica Chapman và nhất là Edward Miller đã cất lên một tiếng nói khác.
Tiếng nói của lòng trung thực không bị lấn áp bởi những quyền lợi chính trị phe phái. Trong số ấy còn phải kể thêm hai nhà sử học trẻ người Việt là Trần Thị Liên và Nguyễn Thị Liên Hằng.
Họ không bị quá khứ bao vây ràng buộc hay ưu tư ám ảnh về việc bênh hay chống TT. Ngô Đình Diệm.
Những nhà sử học trẻ với thời gian đủ để bình tĩnh nhìn lại đã vượt qua những nhà sử học lớp đàn anh như Bernard Fall, Jean Larteguy, John Prados, Neil Sheehan hay những Haberstam, Frank Snepp. Những người này phần đông đã phóng đại những sai lầm bất kỳ lớn nhỏ của một chế độ Cộng Hòa còn non trẻ dựa trên một mẫu thức một chế độ dân chủ có dộ dài lịch sử cả vài trăm năm.
Mang vài trăm năm ra như thước đo để đòi hỏi một sớm một chiều thay đổi cả một hệ tư tướng phong kiến, thuộc địa cả ngàn năm là một đòi hỏi vô trách nhiệm.
Quả thực hiện nay có một sự nhìn lại, đánh giá lại các công trình dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa như các thành quả không chối cãi được như: Ổn định một triệu người di cư- dẹp Bình Xuyên- ổn định trật tự xã hội- Phát triển giáo dục y tế và tạo dựng một quân đội hùng mạnh- có uy tín trên trường Quốc tế vỏn vẹn với thời gian ngắn ngủi chín năm!
Chân dung Tổng Thống Ngô Đình Diệm trước đây từng bị bôi nhọ bởi nhiều nhà báo trong và ngoài nước – nhất là kể từ năm 1960 trở đi dưới thời kỳ TT Kennedy…
Tuần trăng mật của chế độ TT. Ngô Đình Diệm chỉ thật sự an bình và được sự ủng hộ nhiệt tình cho đến hết nhiệm kỳ của đảng Cộng Hòa thời tổng thống Eisenhower. TT. Mỹ đã đón tiếp TT. Ngô Đình Diệm- một trong những trường hợp hiếm hoi- như một thượng khách và ra tận máy bay đón chào ông và cả hai đi diễn hành trên một chiếc xe mui trần được đám đông dân chúng đón chào trên đường phố Broadway ở thành phố Nữu Ước năm 1957. Ít vị quốc khách nào của Mỹ được đón tiếp long trọng như vậy.
Nhưng từ khi TT Kennedy lên làm tổng thống thì tình trạng mỗi ngày mỗi xấu đi mà nhà sử học trẻ Edward Miller, xuất bản một cuốn sách gần đây đã lấy tựa đề tên sách đầy mỉa mai của ông là: (“Missaliance- Ngo Dinh Diem, The United State and the fate of South Viet Nam. (Cuộc hôn nhân không cân xứng, Ngô Đình Diệm and the fate of South Viet Nam”)
Cuộc hôn nhân không tương xứng ấy mỗi ngày một căng thẳng dẫn đến đổ vỡ- như một thứ chiến tranh lạnh giữa đôi bên- dẫn đưa đến quyết định của chính TT Kennedy là “phải thay thế Diệm. Diem must go…”
Tại sao lại có sự căng thẳng ấy?
Là bởi vì Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một nhà lãnh đạo có tầm nhìn viễn kiến về chính trị, có đường lối hẳn hoi mà không có một nhà lãnh đạo miền Nam nào từ thời Bảo Đại có được.
Theo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường bày tỏ trong các bài diễn văn của ông là: “nguyên tắc căn bản của một nhà lãnh đạo đất nước là phải đặt chủ quyền đất nước, độc lập dân tộc như một nguyên tắc không thể tương nhượng”.
“Không có độc lập, tự chủ thì không có gì hết – Tout ou rien- Hoặc là có, hoặc không có…”
Và chủ quyền là bất khả tương nhượng. Người ta không thể vì lợi ích vật chất mà mất chủ quyền. Ông lấy tỉ dụ, nếu cứ nghe người Mỹ thì cuối cùng ông chỉ còn là một thứ con bài cho người ta sai bảo. Chính Ed Lansdale trong một bài phỏng vấn truyền hình do Stanley Karnow thực hiện đã thú nhận rằng:
“10 ý kiến đưa ra cho ông Ngô Đình Diệm thì may ra một điều được ông nghe theo”.
Đó là một sự thật để sau này giải tỏa được những tuyên truyền của cộng sản như: “Ông Diệm là con bài của Mỹ, Mỹ-Diệm hay trục của điều xấu: Spellman-Vatican- Diệm”.
Đường lối thứ hai của Ông là chống Pháp thực dân và chống cộng sản độc tài.
Chính vì ba nguyên tắc này mà ông được coi như là thuộc lực lượng thứ ba (3e force). Nghĩa là chống cả Pháp lẫn thực dân. Nhiều người cho là “Ông Ngô Đình Diệm là người bướng bỉnh, cố chấp, người khác cho ông là không có cái mềm dẻo chính trị của một chính trị gia, hoặc ông là loại người ngây thơ, thiếu bén nhậy chính trị”.
Tất cả những nhận xét trên chỉ đúng một phần, phần còn lại là sai, vì họ đã không hiểu những viễn kiến chính trị của ông.
Viễn kiến chính trị ấy ông đã theo đuổi suốt cuộc đời làm chính trị của ông, và sau này xét công hay tội đều phải căn cứ trên viễn kiến chính trị này.
Tiến sĩ Trần Thị Liên trong luận án tiến sĩ sử của bà cho thấy rằng cả người Pháp lẫn Bảo Đại cũng như giới lãnh đạo Công giáo như giám mục Lê Hữu Từ đều cho thấy “Ông Ngô Đình Diệm và Nhu là những người không bao giờ chấp nhận hai chữ Thỏa Hiệp”.
Ông Ngô Đình Nhu từng viết như sau về lập trường cố định của anh em ông: Và theo ông Nhu: nguyên tắc nền tảng để có thế cứu vãn Việt Nam là (3).
Điều quan trọng đối với ông Nhu là từ chối tất cả sự hợp tác với người Pháp, bởi vì theo ông tất cả các người Công giáo đều có hai bổn phận: với tư cách người Việt Nam phải loại trừ khỏi ách đô hộ của người ngoại quốc và tranh đấu chống lại ý thức hệ cộng sản.(…)thỏa hiệp với người Pháp không phải là một giải pháp. Chẳng những vậy còn là một tội ác làm suy yếu lực lượng kháng chiến..(..)
Ông Ngô Đình Nhu viết tiếp: chủ nghĩa quốc gia tranh đấu một mất một còn là vũ khí hữu hiệu chống lại cộng sản và chủ nghĩa thực dân.
Bảo Đại sau khi gặp Bollaert ở Hồng Kông cũng ghi lại thái độ của Ông Ngô Đình Diệm như sau:
“Diệm là người phản đối mạnh mẽ nhất. Đối với Diệm, những nhượng bộ của Pháp rõ ràng không đủ khi hạn chế chủ quyền quốc gia bằng cách sát nhập vào Liên Hiệp Pháp. Đối với ông ta, đó là những đề nghị sai lệch”. Trần Văn Lý cũng chia xẻ quan điểm của ông Ngô Đình Diệm. Cả hai đã bị ảnh hưởng bởi các diễn tiến của các phong trào giải thực đang diễn ra đồng thời tại Ấn Độ và Miến Điện và họ đã đưa ra một chương trình nhờ đó cho phép Việt Nam có quy chế tự trị Domino.(Quy chế tự trị trong Liên Hiệp Anh- NVL).
Đối với họ, đó là giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được đối với những người quốc gia Việt Nam. (4)
Lần chót trong một buổi họp ở Hồng Kông với Bảo Đại, một lần nữa Ông Ngô Đình Diệm đã lên án một cách mạnh mẽ về con đường thỏa hiệp của Bảo Đại khi ông này đặt bút ký vào Hiệp định Élysée. Ông Ngô Đình Diệm coi đây như một sự đầu hàng người Pháp. Sau đó, kể như hai bên đoạn giao.
Và Bảo Đại tỏ ra thất vọng viết:
“Với Diệm, chúng ta chỉ có một thái độ chờ đợi”.(5)
Lập trường chính trị cứng rắn của Ông Ngô Đình Diệm cũng buộc lòng giám mục Lê Hữu Từ gửi một phái viên thân cận là luật sư Lê Quang Luật nhằm thuyết phục ông Diệm về hợp tác với Bảo Đại. Kết quả là bị ông Ngô Đình Diệm phủi tay. Lê Quang Luật cho người Pháp hay là kết quả thương lượng không đem lại kết quả gì vì thái độ cứng rắn của Ông Ngô Đình Diệm:
“Ngô Đình Diệm không cho thấy một chút hy vọng gì ông ta ra khỏi thái độ chờ thời (attentisme) và thay đổi quan điểm chính trị của ông ta. Ông Diệm tỏ ra một thái độ ghét cay ghét đắng Bảo Đại vì lý do Bảo Đại là người có cá tính mềm yếu và không vững vàng. Giả dụ nếu Ngô Đình Diệm chấp nhận lên cầm quyền, ông ta sẽ tiến hành một cuộc chiến chống Cộng sản tới cùng với điều kiện được sự hỗ trợ của Bảo Đại”.
Và sự hỗ trợ đó đã không có.
“Diệm đã không muốn tham gia chính quyền vì những xác tín chính trị của ông ta”. (6)
Cũng theo đường lối này mà đã ba lần Ông từ chối lời mời của ông Bảo Đại ra làm Thủ tướng. Lần đầu lúc ông làm Thượng thư triều đình, ông đã xin từ chức, tiện đó Bảo Đại đã cách chức và tước đoạt mọi phẩm hàm vào năm 1933, sau đó lại cho phục chức. Khi bị cách chức, ông mất danh vị nhị phẩm triều đình và lương bổng 400/tháng. Viết về việc này, ông Phan Khôi cho rằng:
“Trong vòng 50 năm trở lại đây từ đời Thành Thái chưa có một vị sĩ phu bào có khí tiết và danh dự như Ngô Đình Diệm. Danh ông nổi như cồn về việc từ chức của ông để phản đối Bảo Đại thỏa hiệp với Pháp”. Phan Khôi viết:
“Sĩ phu liêm sỉ chi đạo táng, chính câu ông Phan Châu Trinh nói như thế. Con người mất cả liêm sỉ là con người bỏ; huống chi cả một đám người mất liêm sỉ, mà còn mong gì được ư?
Nhờ ông Ngô Đình Diệm vớt lại nhiều ít, nhờ sự cách chức và khai phục ông Ngô Đình Diệm vớt lại nhiều ít, họa may cái lòng liêm sỉ của sĩ phu Việt Nam ngoi dậy chăng?” (7)
Cụ Phan Khôi mới chỉ nhấn mạnh tới cái đức tính liêm sỉ của ông Ngô Đình Diệm. Nhưng điều chính yếu trong việc từ chức này là một quan điểm chính trị dứt khoát không hợp tác với Pháp.
Nhưng cũng vì đường lối cứng rắn của ông nên ông cũng bị cộng sản lên án tử hình và Pháp không bảo đảm an ninh cho ông. Ông buộc lòng phải dời Việt Nam chọn bước đường lưu vong vào tháng 8-1950 cùng với ngưới anh là Giám mục Ngô Đình Thục.
Thoạt đầu ông ghé Hồng Kông rồi sang Nhật Bản. Ở đây ông có dịp gặp lại một đồng chí của ông là Cường Để – ông đã xưng hô là bệ hạ -.Nhưng lá bài Cường Để đã không còn hữu dụng khi Nhật thua trận với đồng minh.
Ông cũng tìm cách xin găp vị tướng lừng danh của Mỹ là Douglas MacArthur. Nhưng đã không có kết quả..
Một cái may mắn là Ông đã gặp được một giáo sư người Mỹ, làm tình báo cho CIA, ông này sãn sàng giúp đỡ Ông Ngô Đình Diệm và họ đã trở thành bạn. Đó là ông Wesley R. Fishel. (giáo sư Khoa Học Chính Trị, Michigan State University, 31, được coi là một chuyên gia đầy tài năng và có nhiều quan hệ với những nhân vật lãnh đạo ở Á Châu). Ông này nhận ra Ông Ngô Đình Diệm là một gương mặt sắc bén về chính trị, có niềm tin mãnh liệt và quyết liệt chống Cộng. Ông cũng là người đưa ông Diệm vào làm việc trong cơ quan của ông với tư cách một chuyên viên đặc trách về Đông Nam Á.
Thật ra, sang Mỹ, phần lớn thời gian Ông Ngô Đình Diệm phải nằm chờ thời tại một tu viện ở Nữu Ước. Linh mục Phó viện truởng của tu viện tên là Daniel Lyons, dòng tên, sau này có viết lại trong cuốn sách của ông: Viet Nam Crisis như sau
“Ông Diệm ở lầu hai và ngày ngày ông học thêm tiếng Anh và đọc lịch sử Mỹ Quốc. Vì không phải một nhân vật có chức quyền nên không được giới chức Mỹ tiếp đón. Họ tỏ ra lạnh nhạt với ông”.(8)
Sau này do Fisel giới thiệu ông quen biết được một vài nhân vật trong chính giới Mỹ như các hồng y Cushing và nhất là Spellman và các thượng nghị sĩ dân chủ như Mike Mansfield, John F. Kennedy, nhất là ông tòa William,O Douglas và linh mục Raymond J. de Jeagher..( ông đã quen biết Linh mục này từ năm 1947).
Kết quả của những mối liên lạc này cũng không đi đến đâu và ông tỏ ra tuyệt vọng. Mùa xuân 1953 ông quyết định bỏ nước Mỹ từ bỏ chính trị đến ở một tu viện dòng Benedictin, St Andre ở Bỉ..
Trong bữa ăn từ giã nước Mỹ do ông tòa William O. Douglas khoản đãi Ông Ngô Đình Diệm vào ngày 8-5-1953, Ông đã có dịp gặp những vị khách mời quan trọng như Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy. Trong bữa ăn này, một lần nữa, Ông Ngô Đình Diệm phê phán Bảo Đại vẫn đi tìm một giải pháp chính trị ảo vọng bằng cách tựa vào thế Liên Hiệp Pháp .
Ít ra thì ông cũng gửi đi đuợc một tín hiệu cho chính giới Mỹ thấy rằng lá bài giải pháp Bảo Đại tỏ ra không hợp thời nữa và ngụ ý rằng không ai khác, ngoài ông ra có thể đưa được bài toán giải đáp cho những vấn đề phức tạp của Việt Nam.
Việc rời khỏi Mỹ là dấu hiệu cho thấy ông Diệm không tìm được một lối ra cho bài toán VN ra khỏi quỹ đạo người Pháp, đồng thời không tìm được sự ủng hộ tích cực của chính giới Mỹ để chống cộng sản.
Điều đó cho thấy rõ ràng con đường chính trị của Ông Ngô Đình Diệm là khởi từ Paris chứ không phải Hoa Thạnh Đốn.
Về Paris, ông có dịp được gặp TT Pháp và sau đây là nội dung được ghi lại trong Hồi Ký của TT Pháp như sau:
“Nỗi lo lắng chính yếu của nhà lãnh đạo Thiên Chúa giáo là sự chấp nhận một chính quyền Việt Nam hoàn toàn độc lập. Không thể chấp nhận tình trạng hai quyền lực (dualité) chính quyền. Nghĩa là cần có một chính quyền thực sự có trách nhiệm”.
TT. Vincent Auriol ghi nhận thêm:
“Một lá bài chính đáng có thể một ngày nào đó phải được dùng đến: Diệm một người Quốc Gia thuần túy. Một người đã chống đối lại chúng ta một cách kịch liệt. Một người rất khó để có thể điều khiển. Nhưng trung thực và liêm khiết. Rất là đố kỵ với thối nát lúc nhúc chung quanh Bảo Đại, và là một người có uy tín lớn lao”. (9)
Gần đây nhất, chúng tôi được biết Linh mục bề trên dòng Benedictin, tại Bỉ, Viện phụ René Forbe, bề trên của Đan Viện. Sau 60 năm giữ kín lá thư của Ông Ngô Đình Diệm xin đi tu trong bậc trợ sĩ. Trong dịp công bố lá thư này, có sự chứng kiến của một số thân thuộc của TT. Ngô Đình Diệm như bà Charlotte Ngô Đình Luyện, bà Marie Claude Ngô Đình Luyện và bà E1lizabeth Nguyễn Thị Thu Hồng- em gái cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Cũng theo vị bề trên Đan Viện, Ông Ngô Đình Diệm đã trú ngụ ở Đan Viện 6 tháng trước khi quyết định rời tu viện.
Lá thư xin đi tu của Ông Ngô Đình Diệm là một tài liệu vô cùng quý giá, vì nó làm sáng tỏ sinh mệnh chính trị của Ông, đánh tan cái dư luận ác ý, thổi phồng gán ghép ông Diệm là một lá bài của Mỹ qua cái trục Spellman- Vatican- Ngô Đình Diệm.
Đối với tôi, lá thư xin đi tu của ông Diệm là một soi sáng lịch sử sau 60 năm. Nó cho ta thấy rằng một lúc nào đó: Nắng đã lên. Sự thật được trả về cho sự thật!
Trong Viet Nam, a History, Karnow cũng đã đưa ra một khẳng định phủ nhận những tin đồn của một vài tác giả Mỹ như Robert Scheer trong How the United States got involved in Viet Nam và tác giả Việt (trường hợp Vũ Ngự Chiêu) là có tính cách tiểu thuyết xây dựng chung quanh huyền thoại Spellman này.
Sau này sử gia Edward Miller cũng đồng quan điểm với Stanley Karnow cho rằng: Những quan niệm cho rằng “Công giáo là yếu tố chủ chốt giải thích cho khả năng giành được sự ủng hộ của người Mỹ giỏi lắm cũng chỉ là phóng đại”.(10)
Và chúng ta căn cứ vào những người trong cuộc như Bảo Đại, chúng ta thấy rõ việc chọn lựa Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng là quyết định từ Bảo Đại với sự tham khảo ý kiến của nhiều chính giới ở Pháp và rằng những người này đều đồng ý việc chọn lựa ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng…
Cùng lắm một vài chính giới Mỹ chỉ đóng vai trò tham khảo như các ông Bedell Smith và Bonsai. Và chỉ khi đã quyết định chọn Ông Ngô Đình Diệm rồi, ông Bảo Đại mới tiếp xúc với Ngoại Trưởng Foster Dulles để cho biết quyết định của mình.
Tóm lại có tham khảo phía Mỹ mà không có bất cứ áp lực nào từ phía người Mỹ trong quyết định chọn ông Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng.
Phần Arthur J.Dommen đã dành hẳn một chương nói về việc này nhan đề: “ The choice of Diem” trong đó nhấn mạnh chính ông Bảo Đại có quyết định về việc chọn lựa khó khăn này:
“4 ngày trước khi đến Paris, Bảo Đại đã triệu Ngô Đình Diệm từ tu viện St Andrew Bruges đến gặp ông ta. Một chủ đích rõ ràng muốn giao trọng trách cho Ngô Đình Diệm bất kể sự chống đối của người Pháp. Trong đó dù không trực tiếp nói ra, ông Bảo Đại cũng muốn sự đồng tình ủng hộ về phía người Mỹ”. (11)
Trong cuốn sách của Edward Miller nêu ở trên, ông còn khẳng định rằng:
“Những điều viết biếm họa về ông Diệm chỉ căn cứ trên những giả định sai lầm và nhiều những điều kết luận rút ra từ những giả định đó đều sai lạc..Chẳng hạn trái ngược với những đồn đại, Diệm chỉ là thứ bù nhìn của Mỹ, Diem đã nắm được quyền hành vào năm 1954 chỉ do những cố gắng cá nhân của ông và của những anh em của ông, mà không do một vận động áp lực nào từ phía Mỹ”.
Edward nói thêm:
“Và ngay sự thành công kế tiếp trong việc củng cố quyền lực của ông ở miền Nam VN cũng chỉ là do kết quả do những vận dụng của riêng ông mà thôi”. (12)
Và phải chăng viễn kiến chính trị về một con đường thứ ba vừa chống Pháp, vừa chống Việt Minh nay là thời cơ thuận tiện để Ông Ngô Đình Diệm thực hiện giấc mơ chính trị của mình?
Cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm kéo theo một thảm trạng của miền Nam, cuối cùng chỉ vì muốn bảo vệ Chủ quyền Độc Lập Quốc Gia, không đồng thuận với người Mỹ.
Quả đúng là một cuộc hôn nhân gượng ép mà ngay từ đầu cả hai bên đều thấy không thể kéo dài được nữa!
Ghi chú:
(1) No more Viet Nam, Richard Nixon 57-62
(2) No more Viet Nam. Ibid trang 63-65
(3) Trần Thị Liên, Les Catholiques Vietnamiens pendant la guerre d’indépendance ( 1945-1954) entre la reconquête coloniale et la résistance communsite.
(4) Bao Đai, Le Dragon D’Annam, 1980, trang 190-200
(5) Bao Dai, Ibid, trang 198
(6) ASAT 10 11 1039, Hanoi, le 24-3-1950, Fiche sur entretien avec Mr Le Quang Luat le 23-3-1950, peu après son retour à Sài Gòn
(7) Việt-studies, Một việc rất có ảnh hưởng đến tâm thuật của sĩ phu. Cách chức và khai phục ông Ngô Đình Diệm, Lại Nguyên Ân
(8) Viet Nam Crisis, Stephen Pan, Daniel Lyons, S.J. trang 82-83
(9) Vincent Auriol, Journal du Septennat ( 1947-1954). Trích lại Tran Thi Lien, Ibid, trang 521
(10) Vision, Power and Agency: The ascent of Ngo Dinh Diem 1945-1954 Eddward Miller, journal of southeast Asian Studies, trg 433-458, trích lại trong cuộc Cách Mạng Nhân Vị
(11) The Indochinese Experience, Arthur J. Dommen, trang 237
(12) Misalliance, Ngo Dinh Diem, The United States and the fate of Viet Nam, Edward Miller, trang 15
Tình hình chiến sự trước và sau cuộc Đảo chánh 11/1963:
Trong năm 1963, khi xảy ra biến cố Phật giáo. Kennedy đã gửi hai phái đoàn thanh tra đến Việt nam để thẩm định tình hình:
Ngày 7/9/63, phái đoàn của trung tướng Victor Krulag theo lệnh của đại tướng Taylor- Tham mưu trưởng liên quân. Theo ý kiến của tướng Victor Krulag thì cuộc chiến đấu quân sự vẫn đang tiến hành với một nhịp độ đáng khâm phục ( và rằng cuộc khủng hoảng chính trị cũng có ảnh hưởng đến, nhưng không bao nhiêu, Việt cộng sẽ thua, nếu Mỹ vẫn tiếp tục những chương trình viện trợ về quân sự và xã hội).
Và rồi ngày 2/10/63, một phái đoàn khác do chính bộ trưởng quốc phòng Mcnamara và đại tướng Maxwell Taylor hướng dẫn. Bản phúc trính của họ lạc quan về tình hình quân sự (nhưng bi quan về tình hình chính trị).
Thế nhưng sau đảo chánh 11/63, VNCH rơi vào tình trạng cực kỳ nhiễu nhương:
Xảy ra ba cuộc binh biến liên tiếp trong thời gian hai năm: Binh biến ngày 31/1/64, binh biến 13/9/64 và binh biến ngày 19/2/65. Sáu chính phủ nối tiếp nhau trong thời gian hai năm: Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ, chính phủ Nguyễn Khánh, chính phủ Nguyễn Xuân Oánh, chính phủ Trần văn Hương, chính phủ Phan Huy Quát, và chính phủ Thiệu/Kỳ.
Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng , kể từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 7 năm 1965, đã lần lượt thay đổi đến 5 lần .
Chỉ trong vòng 6 tuần sau ngày đảo chính, đã có đến 62 đảng phái ra đời. Có những đảng cũ tái sinh rồi chia ra làm bốn, làm năm. Có đảng được thành lập từ những chính trị gia vừa trở về sau khi lưu vong bên Miên, bên Pháp. Có đảng chỉ loe hoe ông đảng trưởng và vài ba đảng viên. Các đảng phái ô hợp này không đóng góp được gì cho tự do dân chủ ngoài việc thi hành quyền tự do chỉ trích chính phủ và chỉ trích lẫn nhau một cách ô hợp .
Những cuộc xuống đường biểu tình diễn ra liên miên. Các tướng dùng quân đội tranh quyền cai trị đất nước, lãnh tụ những đảng phái đố kỵ nhau, Phật tử xung đột với Ky-tô hữu, Quốc Trưởng và Thủ Tướng không ưa nhau ( Phan khắc Sửu/ Phan huy Quát)…Các đơn vị quân đội nổi loạn, quân đội ghìm súng trước quân đội.
Năm 1969 Tướng Wesmoreland cho biết nếu Mỹ không đổ quân vào Đà Nẵng năm 1965 thì VNCH sẽ mất trong sáu tháng, trung tướng Ngô Quang Trưởng cũng nói năm 1965 tình hình an ninh của ta rất nguy kịch .
Lính Mỹ tự do đổ vào miền Nam càng ngày càng nhiều. Tệ đoan xã hội, đĩ điếm, cần sa, bạch phiến, …
Thành tích diệt Cộng, bảo vệ an ninh cho Nam VN của chế độ Ngô Đình Diệm:
Cuốn sách “Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam” của nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tái bản năm 2000 có đoạn:
“Trong giai đoạn 1957-1959, cách mạng miền Nam gặp nhiều khó khăn. Hàng loạt cơ sở của ta bị chính quyền Ngô Đình Diệm phát hiện và bắt giữ. Tháng 1/1959, diễn ra hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam, đã quyết định cho phép lực lượng miền Nam sử dụng bạo lực để đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm “.
Trong tài liệu “Phản Bội Hay Chân Chính ” của Cộng sản có đoạn như sau:
“Thành tích chống Cộng của mật vụ Ngô Đình Cẩn/Dương Văn Hiếu (Đoàn Công Tác Đặc Biệt) thật kỳ diệu. Chúng đánh thẳng vào cơ quan đầu não của các Đảng bộ miền Trung như Liên Khu Ủy 5, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Thành ủy Huế, rồi Đà nẵng. Tiến xuống miền Nam, chúng tấn công Đặc Khu ủy Sài gòn Chợ lớn, Thủ biên, Cần thơ. Nổi bật nhất là mật vụ miền Trung đánh bắt gọn các lưới Tình Báo Chiến Lược ) của ta trải suốt từ Bến Hải đến Sài gòn chỉ có một năm.”
*Sau khi ký kết Hiệp Định Geneve 7/1954, Cộng sản đã lén lút để lại trong miền Nam 60,000 bộ đội. Ấy thế mà dù không có lính tác chiến Hoa kỳ hỗ trợ, miền Nam đã không có một tỉnh nào mất vào tay Cộng sản. Đến nỗi tháng 9 năm 63, tên Hồ chí Minh , khi gặp gỡ thủ tướng Trung cộng Chu Ân Lai, đã uất ức thốt lên :“Đừng nói phải đánh 5 năm, 10 năm, dù có 20 năm, 30 năm, thậm chí 50 năm cũng phải đánh.”
Tài liệu “Tổng Kết Cuộc Kháng Chống Thực Dân Pháp, Thắng Lợi và Bài Học”, Hà Nội, 1996, cho biết năm 1954, Hồ chí Minh đã để lại Miền Nam 60,000 đảng viên.
* (Trích) Dưới sự chỉ huy của Dương Văn Hiếu, Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung từng bắt được các cán bộ Cộng sản cao cấp :
Mười Hương vào 06/1958
Vũ Ngọc Nhạ vào 12/1958
Lê Hữu Thúy vào năm 1959
Nguyễn Vĩnh Nghiệp vào năm 1960
Đại tá Lê Câu -người chỉ huy chỉ huy Quân báo Miền Nam của Hà Nội – vào năm 1961.
Mười Hương tức Trần quốc Hương-Uỷ viên Trung Ương từ Khoá IV đến khoá VI. Bí thư Trung Ương đảng khoá VI. Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương.Thư ký riêng cho Trường Chinh. Năm 1958, bị sa lưới của Đoàn Công Tác Miền Trung của ông Ngô Đình Cẩn.
Sau đảo chánh 11/1963, tướng Mai Hữu Xuân, tân Tổng Giám Đốc Cảnh sát Sài Gòn của chính quyền Dương Văn Minh đã trả tự do cho các cán bộ Cộng sản vào tháng sáu 1964 – tất cả bọn Tình báo Khu 5, Tình báo Chiến lược, Cục 2 quân báo Trung Ương VC. Và ngay cả Mười Hương cũng được thả .
Các đồng chí trí thức hải ngoại kiu gọi ôn hòa, kiu gọi sát nách cùng lũ nhân sĩ-trí thức trong nước, nên seo phì trước lá cờ của hiện tại . Hổng nên trưng cờ vàng, vì các vị đã làm ô uế chúng từ hổi tới giờ
Balls hổng có big enuff để làm 1 cú Trần Trường, thui thì làm 1 demi-Trần Trường cũng được . Mọi người sẽ thông/thấu cởm/cảm với các đồng chí
Ngô Đình Diệm: Vị tổng thống nhân từ phát động chương trình Chiêu Hồi mà nhờ đó đã cứu sống 200,000 cán binh Cộng sản :
Chương trình Chiêu Hồi được ra đời ngày 17 tháng 4 năm 1963 dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
Cho đến tháng 4 năm 1975, tổng số hồi chánh viên vượt quá con số hai trăm ngàn, từ binh sĩ đến thượng tá, từ du kích địa phương đến chính quy Bắc Việt, từ giao liên đến tỉnh ủy viên.
Những nhân vật quan trọng đã ra hồi chánh :
1.Thượng tá Tám Hà, Trần Văn Đắc, Chính ủy sư đoàn 5
2.Thượng tá Huỳnh Cự
3.Trung tá Phan Văn Xướng
4.Bác sĩ Đặng Văn Tân
5.Nhà văn Xuân Vũ, Bùi Quang Triết
6.Nhạc sĩ Phan Thế
7.Diễn viên Cao Huynh
8.Mai Văn Sổ (Em song sinh với Mai Văn Bộ)
9.Bùi Công Tương, Ủy viên Tuyên huấn tỉnh Bến Tre
10.Ca sĩ Đoàn Chính (Con của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) và nhạc sĩ Bùi Thiện.
Gần 200,000 cán binh Cộng sản buông súng quy tụ dưới lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa :
Năm/ Hồi chánh ( tổng số tích luỹ)
1963 11248
1964 16665
1965 27789
1966 48031
1967 75209
1968 93380
1969 140403
1970 173064
6/1970 176458
1975 khoảng 200,000 CS
Lên tà là oạch mà coi 1 bộ đội Cụ Hồ, Tưởng Năng Tiến bảo quên công ơn họ thì Đảng hổng xứng đáng lãnh đạo nhưn dưn chúng nó, lộn, các bác, sau khi bị “địch” bắt đã gia nhập chương trình Chiêu Hồi, & lợi dụng nó để thu thập tin tức tình báo gửi về góp phần Giải Phóng miền Nam . Sau khi trốn thoát được, ông bị mất toàn bộ trợ cấp, đã vậy còn bị ngược đãi, công an canh chừng … Ông viết thơ kêu oan rằng lòng ông vưỡn luôn trung với Đảng .
Bi giờ có chương trình hòa giải hòa hợp, đủ thành công để có các “trí thức” hải ngoại sẵn sàng đem cờ vàng chích đùi cho các trí thức Cộng Sản . Có bao nhiêu ngôn ngữ của Đảng, khép lợi quá khứ, hướng tới tương lai, ôn hòa, làm cho Đảng tin dân … được cái nhân sĩ-trí thức trong nước bắn tung tóe, các trí thức hải ngoại hứng hổng sót giọt nào, thụ tinh nhân tạo rùi nhân giống lên với dân hải ngoại . Da Màu đòi hợp lưu với the likes of Lương Ngọc An, Nguyễn Đức Lùng Tùng Phèng biện hộ cho Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tưởng Năng Tiến mở mục đọc văn Cách Mạng cho đồng bào hải ngoại, vì thía họ đã thôi, hổng chống Cộng từ lâu . Bi giờ xun xoe đem cờ Vàng ra chích đùi cho trí thức Cách Mạng nữa
Thiệt tình, làm ô uế cờ vàng chắc chả ai bằng mấy con chó sủa ma!
“Tổng cục 2” là cách gọi tắt cơ quan đặc trách tình báo của Quân đội CS:
Cựu chiến binh Năm Châu (Hồ văn Châu) và Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Sáu Sứ ( Nguyễn thị Sứ ) từ miền Nam đã ra Hà nội nhiều lần, vận động các đảng viên kỳ cựu, các sĩ quan cao cấp nhằm đưa Giáp lên, hoặc làm Tổng bí thư, hoặc làm Chủ tịch Nước, và đưa tướng Trần văn Trà ra làm bộ trưởng Quốc phòng để rồi sẽ thay Giáp làm Tổng bí thư.
Tổng cục 2 đưa ra những bằng chứng về nhiều nhân vật CS cao cấp hoặc cộng tác với CIA hoặc là chịu sự chi phối của CIA, như Nông Ðức Mạnh đương kim Tổng bí thư đảng , Nguyễn Văn An chủ tịch quốc hội, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt , thủ tướng hiện tại Phan Văn Khải , các Ủy viên bộ chính trị như Trương Tấn Sang, Phan Diễn, đến Phó thủ tướng Ủy viên trung ương đảng Phạm Gia Khiêm, cựu Bộ trưởng công an như Bùi Thiện Ngộ, Mai Chí Thọ , Lê Văn Dũng Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, v.v…
Ban điều tra liên ngành đã được thành lập gồm các đại biểu của ban Kiểm tra Trung Ương Đảng, Ban Tổ chức Trung Ương đảng, Viện Kiểm Soát Tối Cao, Tòa án Nhân Dân Tối cao, bộ Quốc phòng, bộ Công an… do Lê Hồng Anh ( sau làm bộ trưởng bộ Công An) làm trưởng ban. Và Bộ Chính Trị đã nhiều lần nghe Ban điều tra liên ngành báo cáo .
Tìm đâu những ngày huy hoàng xưa ?
Tìm đâu, biết tìm đâu, đâu giờ?
***So sánh GDP đầu người của VNCH với vài nước Á Châu –
Trần Đăng Hồng, PhD:
“….Theo biểu đồ 1, vào thời điểm 1960, trong số 10 quốc gia Á châu, Việt Nam Cộng Hòa (VNCH, South Vietnam, 223$) có GDP tính theo đầu người
tuy đứng sau Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippines (257$),
nhưng nhiều hơn Nam Hàn (155$), hơn gấp đôi Thailand (101$), gấp 2,4 lần Trung quốc (92$), gấp 2,7 lần Ấn độ (84$), và gấp 3 lần Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (North Vietnam, 73$).
“Tổng sản lượng quốc gia VNCH năm 1960 là 82 tỉ đồng VN, trong số này gồm có 4,481 tỉ đồng (5,5%) là tiền viện trợ . Nguồn: Timothy Hallinan (1969). Economic prospects of the Republic of Vietnam. ”
***Đàn Chim Việt: “Đôi điều về bài viết của ông Nguyễn Hữu Liêm ”
Hồ Phú Bông -21/10/2022:
” So sánh con số GDP / đầu người tại miền Nam năm 1960 với Việt Nam hiện tại.
– Vào năm 1960, là chỉ 5 năm sau khi khai sinh Đệ nhất VNCH từ một miền Nam bị cát cứ (tính theo USD) thì VNCH (223$) đứng sau các nước Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippines (257$). Cao hơn Hàn Quốc (155$), gấp đôi Thailand (101$), gấp 2,4 lần Trung Quốc (92$), gấp 2,7 lần Ấn Độ (84$), và gấp 3 lần Bắc Việt Nam (73$).
*Lợi tức tính theo đầu người hiện nay :
VN: US$ 4,010
Thái: $7,230
Mã Lai:$11,780
Đại Hàn : $35,990
Iraq: $5,270
Mễ : $10,410
(World Bank)
26/12/2024- 16 tỷ USD kiều hối về Việt Nam trong năm 2024
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết kiều hối là nguồn lực quan trọng với đất nước, dự báo đạt khoảng 16 tỷ USD trong năm 2024.
* Việt nam sống kiếp ký sinh vào người Việt hải ngoại suốt từ năm 1980 cho đến nay 2024- và chỉ tính sơ sơ trong vòng 12 năm 2000 đến 2021- ở Hải ngoại đã gửi về 184 tỷ đô la :
184 tỷ đô la : US$ 184,000,000,000 ( 9 con số 0 )
Hối xuất: 1 đồng đô la Mỹ = 24,867 đồng VN
24,867 VN đồng X US$ 184,000,000,000 = ??? đồng VN
Trong khi ngân sách Quốc Phòng VN từ năm 2016 đến nay 2021 chỉ tòm tèm 5 tỷ đô la mỗi năm .
* Theo giáo sư phó tiến sĩ Nguyễn anh Tuấn trong bài viết ngày 7/3/2017:
” Từ năm 1980, Việt Nam đã tiếp nhận một lượng lớn dòng ngoại tệ từ các kiều bào ở nước ngoài, trung bình một người Việt Nam ở nước ngoài gửi về nước khoảng hơn 2.000 USD mỗi năm. Lượng kiều hối gửi về Việt Nam đã tăng từ 35 triệu USD (năm 1991) lên 1,75 tỷ USD (năm 2000), 3,8 tỷ USD (năm 2005)”.
* Theo trang mạng tienphong ở VN:
10/10/2016
“Trong suốt 22 năm qua, dòng tiền này tăng khoảng gần 100 lần từ 0,14 tỷ USD năm 1993 lên 11 tỷ USD năm 2013 và khoảng 13,2 tỷ USD vào năm 2015 ” .
Năm kỉa năm kia ngoài Hà Lội có 1 tay thương gia xây bin đinh cao hơn lăng Hồ Chí Minh, thế là cả Hà Lọi điên lên, dẫn đầu là những nhân sĩ-trí thức, most notable là Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện . Fong chào dần lớn mạnh, chủ yếu wanh wanh 1 mệnh đề, đó là xây cao hơn lăng Bác tức là xúc phạm Bác
WTF ya know, cuộc đấu tranh thành công . Bin đinh đó bị phá đi 2 tầng để hổng thỉa cao hơn lăng Hồ Chí Minh
Trí thức-nhân sĩ nhà ta nên chọn những chủ đề đấu tranh như vậy, dễ thành công hơn, và hải ngoại dễ đồng hành với các vị hơn
Cụ Hồ trong tâm tưởng của 1 người thuộc hạng nhân sĩ-trí thức, 1 trong những tiếng nói “phản biện” mà trí thức hải ngoại vưỡn kiu gọi sát nách . Tiến Sĩ Mạc Văn Trang
Nghe tin mặt trận Việt Minh
Kêu dân vùng dậy phá xiềng thực dân!
Nông dân bỗng trào dâng như nước
Phá kho lương, lấy thóc chia nhau
Hỡi Nông dân ngẩng cao đầu
Cụ Hồ kêu gọi mau mau cướp quyền!
Dân rầm rập, thét vang, vung giáo:
“Thề phanh thây uống máu quân thù”!
Tuyên ngôn Độc lập Cụ Hồ
Dân nghe náo nức như mơ ban ngày!
Cách mạng đã đổi thay tên nước
Làng xóm ta lập tức đổi ngay!
Tên làng “Độc lập” mới oai
Xóm Trong “Dân chủ”, xóm Ngoài “Tự do”!…
Ba thứ giặc diệt cho bằng hết:
Giặc đói, rồi giặc dốt, ngoại xâm
Sáng họp hành, tối mít tinh
“I tờ” inh xóm, sân Đình “mốt hai”!…
Thực dân Pháp lại quay xâm lược
Cụ Hồ kêu giữ nước, giữ làng!
Thà rằng tất cả hy sinh
Ủng hộ Việt … OK, thì “Nam”, chống Trung Cộng
NHom Giao Diem noi dung NGo Dinh Diem Chang lam gi goi la yeu nuoc.Tung lam tay sai cho ngoai bang 3 doi Phap Nhat My, Chang co hanh dong nao chong chu cua minh
Nhóm Giao Điểm có hai chủ trương chính là đánh phá Thiên Chúa Giáo và bênh vực Đảng và
nhà cầm quyền CSVN. Khi Bùi Hồng Quang, một sáng lập viên của nhóm Giao Điểm, đem báo
Giao Điểm về in ở Việt Nam và khi đem ra đã được Tổng Cục An Ninh giới thiệu đây là tạp chí
“phục vụ cho việc tuyên truyền vận động đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta”.
Phóng ảnh chụp trên mạng không thể copy vào trang mạng ĐCV, nên tôi chép lại từ nguyên bản chính
như sau:
“Chỉ thị số 1020/A41(P4)
Kính gửi: Cục Hải quan Tp. Hồ chí Minh
“Ngày 23/12/2007, ông Bùi Hồng Quang, Việt kiều Mỹ, sinh ngày 31/10/1949, hộ chiếu số 039702706 sẽ
mang khoảng 420 quyển tạp chí Giao Điểm số 65 để xuất cảnh ra nước ngoài .
Đây là số tạp chí có nội dung thuần túy tôn giáo, phục vụ cho việc tuyên truyền vận động đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy để tạo điều kiện, Cục An ninh xã Hội- Tổng cục An ninh , Bộ Công
an đề nghị các đồng chí quan tâm hỗ trợ để ông Bùi Hông Quan được mang số tài liệu trên ra nước
ngoài.
“Rất mong sự phối hợp công tác của các đồng chí .
KT.
Cục trưởng
Phó Cục trưởng
“Đại tá : Lê Công Hoàng “
Trích từ Blog Đặng Chí Hùng về tên Trần chung Ngọc – nhóm Giao Ðiểm :
“Trần chung Ngọc, tên đặc công Việt cộng cầm bút!
“Tên Trần chung Ngọc, thường xuyên viết bài chửi bới, phỉ báng VNCH. Hắn là một trong những tên đặc công Việt cộng khét tiếng của nhóm Giao Ðiểm. Tên Ngọc thường viết bài đăng trên “KBC” của tên việt gian Nguyễn Phương Hùng, chuyên phỉ báng lá cờ Vàng và chánh nghĩa quốc gia.
“Nhân tiện đây, chúng tôi xin kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước hãy lên tiếng tố cáo tội ác của nhóm Giao Ðiểm, ổ rắn độc của Việt cộng tại hải ngoại hết sức nguy hiểm, đang đánh phá cộng đồng người Việt một cách hết sức điên cuồng, say máu và tàn ác.
“Tên Trần chung Ngọc đã viết nhiều bài phỉ báng chánh nghĩa quốc gia, đăng trên websitecủa hắn sachhiem.net và”KBC” của tên việt gian Nguyễn phương Hùng.
Tên này được chính phủ VNCH cho đi du học Mỹ, từ năm 1967 đến 1972, lấy được bằng tiến sĩ. Sau năm 1975 thì hắn đã lộ mặt ra là một tên phản bội, quay ngược súng bắn vào tổ quốc VNCH và bây giờ thì công khai đi làm chó săn cho bọn Việt gian cộng sản “.
Nhà báo Bùi Tín:” Một nhân vật sống ở miền Nam, trong quân ngũ VNCH, sỹ quan, trí thức có học hàm, lại ca ngợi tâng bốc ông Hồ đến mức sùng bái, vái lạy “cha già dân tộc”. Đó là ông “tiến sỹ” Trần Chung Ngọc, thường viết trên mạng Giao Điểm. Ông sùng bái ông Hồ hơn ai hết, với những luận văn dài “.
Trước đây, trên trang mạng cũ của Đàn Chim Việt, ngày 22/9/2013, có đăng một bài viết dài cùng những hình ảnh vạch trần bọn Giao Điểm và tên Trần chung Ngọc hoạt động cho Cộng sản .
Thế là ổng có thỉa xem thuộc loại nhân sĩ-trí thức được gòi
“trí thức” -ccc- hải ngoại mún dân hải ngoại sát nách với những nhân sĩ-trí thức “phản biện” trong nước, vì họ đã được mọi người, cả trong lẫn ngoài nước, kính trọng . In turn, những nhân sĩ-trí thức đó lại rất kính trọng Bác Hồ . Họ trở thành 1 thứ cầu Bất, lộn, Hiền Lương nối lòng dân với Bác Hồ . WTF ya know, rite?
Thế là ổng có thỉa xem thuộc loại nhân sĩ-trí thức được gòi
“trí thức” -ccc- hải ngoại mún dân hải ngoại sát nách với những nhân sĩ-trí thức “phản biện” trong nước, vì họ đã được mọi người, cả trong lẫn ngoài nước, kính trọng . In turn, những nhân sĩ-trí thức đó lại rất kính trọng Bác Hồ . Họ trở thành 1 thứ cầu Bất, lộn, Hiền Lương nối lòng dân với Bác Hồ . WTF ya know, rite?
Tổng thống Ngô Đình Diệm chết, mồ chôn ông, việt cộng sợ, cấm đề tên nhưng tiếng ông Diệm lưu muôn thuở ngàn đời cho thế hệ sau; còn Hồ Chí Minh chết, nhà nước việt cộng không dám tuyên bố, không dám chôn, xây cái lăng to đùng như nhà xí, đề tên Hồ to cao mọi nơi mọi chốn nhưng Hồ để lại tiếng xấu ngàn năm.
Bài viết rất hay. Tác giả thấy được cái viễn kiến chính trị và cái tài lãnh đạo của ông Diệm nhưng tiếc rằng vì VNCH là một nước nhỏ nên bị các nước lớn thao túng và cuối cùng là cái chết đau thương cho hai anh em ông Diệm.
Người Mỹ nhảy vào Miền Nam VN phạm 3 sai lầm lớn căn bản để phải dẫn đến ngày 30/4/1975.
Một là họ giết ông Diệm; hai là không chủ trương muốn thắng cộng sản; ba là phản bội bỏ rơi đồng minh VNCH.
Và người Mỹ tiếp tục phạm sai lầm khi loại Đài Loan để đưa nước Tàu vào Liên Hiệp Quốc, đầu tư hỗ trợ xây dựng một nước Tàu lên ngang hàng với nước Mỹ để rồi bây giờ bị cộng sản Tàu phản bội.
Nhà trí thức Nguyễn Ngọc Giao, vì là giáo sư Toán nên những bài viết của ông đều rất lô-dít, tương tự như các giáo sư Toán khác ở Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chu vv … Giáo sư TOÁN Nguyễn Ngọc Giao viết vì đại diện của Việt Nam đã nghe lời Trung Cộng nên đã chấp thuận để cho chia cắt đất nước, thay vì thống nhứt đất nước thời đó . Và nửa miền Nam, cũng theo lời ổng & các nhân sĩ-trí thức khác, đã dựng lên chế độ độc tài mà những người có lương tri & 1 chút tâm huyết đều phải chống như Cao Huy Thuần & Nguyễn Ngọc Giao . Chế độ độc tài là cái cầu rộng mở mời Mỹ vô
Chế độ Ngô Đình Diệm có lẽ, theo lô-dít của Gs Toán Nguyễn Ngọc Giao, cần cám ơn Trung Cộng
Thui thì, theo Gs Bùi Văn Phú, đất nước đã được thống nhứt bằng hòa bình, mọi người nên theo Việt … uh … OK, thì “Nam” & chống Trung Cộng thui