Đã gần một thế kỷ kể từ khi Hồ Chí Minh (HCM) trở nên một chiến sĩ cho chủ nghĩa Cộng sản và đã giới thiệu ý chí lịch sử trong ý thức hệ duy vật cho nhu cầu độc lập, thống nhất và tự do cho dân tộc. Ở buổi giao thời đó, cái Ta cá nhân dân tộc đã hoàn toàn giao hoán cho đại thể tính của Đảng Ta. Đảng Ta nuốt hết cái Ta cá thể Việt để kiến tạo một chủ nghĩa yếu nước, một năng lực anh hùng ái quốc mới trước bình minh thức giấc cho một khả thể văn minh mới đến từ phương Tây.
Từ trong một cái Ta thiếu thời, non trẻ và ngây thơ của cá nhân con người Việt, HCM đã từ trời Tây đem về trao cho Hắn một linh hồn, một ý thức mới, một năng ý mới. Trên bàn cờ biện chứng Chủ-Nô theo quá trình tiến hóa của năng lực Tự ý thức thì HCM đã nâng dân tộc Việt lên một nấc cao mới trong cơ sự làm người với ý thức về thân phận con người bị nô lệ muốn đứng lên phá xiềng xích, tự giải phóng cho mình.
Về mặt tích cực thì không ai có thẩm quyền nghi ngờ thiện chí đấu tranh, ý chí giải phóng dân tộc, tình yêu trong sáng của HCM dành cho chủ nghĩa Cộng sản. Và không ai có thể nghi vấn về khả năng hoàn tất vai trò Sử tính của Ông và của Đảng Cộng sản Việt Nam. HCM và những đồng chí Cộng sản đã hoàn tất vai diễn cho một vở kịch bi hùng, vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nước nhà. Chưa bao giờ cái Ta của nàng Kiều non dại, thụ động của dân tộc lại được trang bị cho một ý thức hệ để hy sinh, để làm chuyện Thiện-Ác trên một giá trị luân thường khác biệt.
Cho đến khi cắm được cờ đỏ sao vàng – hay ẩn dạng của nó – trên nóc dinh Độc Lập ở Sài Gòn trong một buổi sáng cuối tháng Tư năm 1975, Đảng Ta đã quy tụ cả một thế hệ Vàng với những đảng viên đại diện cho tầng lớp tinh hoa ưu tú nhất của Thời đại. Từ trong ý thức về thân phận con người phổ quát, trên hành trình xương máu và hy sinh, Đảng Ta đã rất xứng đáng để đi vào huyền thoại Sử tính dân tộc.
Sự xuống dốc của Ý chí Sẽ-Phải-Là
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp nối được truyền thống ý chí độc lập cho tổ quốc, chuyển hóa ý chí Sử tính để ứng nghiệm vào khả thể Sẽ Phải Là cho dân tộc. Những chiến thắng quân sự đối với những kẻ từng nô lệ hóa dân tộc đã hoàn tất được một nội dung tiên tri về Sử lý cho tổ quốc. Rằng Ta chỉ được sống khi Ta sẵn sàng chết. Và đất nước Việt Nam là một cây Thập tự giá để cho thân xác dân tộc được chết cho sinh mệnh Sử Ý Sẽ Phải Là. Như HCM có nói theo lời của Lenin, “Hạnh phúc thay cho những ai được sống, ước mơ, và đấu tranh cho Tự do.”
Nay thì Đảng Ta đang đi vào quá khứ, nó đang trở nên cái Đã Là cho cái Ta dân tộc. Cá nhân và đại thể tính Việt đang đi vào một cái Ta mới cho Thời tính Sẽ Là.
Khi Ta đã hiện thực hóa hết mức độ khả thể của các phạm trù khái niệm của hệ ý thức duy vật, khi biện chứng Chủ-Nô đã hoàn tất, ít nhất là đối với ngoại bang, thì năng thức khái niệm cho chủ nghĩa Yêu nước đã trở nên vô nghĩa. Cái chết đang xẩy ra cho Đảng Ta là sự lụi tàn ý nghĩa khái niệm cho cứu cánh chân lý chính trị và Sử lý. Đó là sự trở nên vô nghĩa của những phạm trù bao hàm những khẩu hiệu suốt thế kỷ qua: ý chí Cách mạng, lòng Hy sinh quả cảm, tinh thần Yêu nước, chủ nghĩa Quốc gia, ưu tiên Dân tộc.
Trong vòng chưa tới một trăm năm, Đảng Ta vừa nâng cao, nuôi dưỡng, phát huy cao độ thành công cứu cánh tính cho chủ nghĩa quốc gia. Chiến thắng Điện Biên Phủ là thượng đỉnh cao nhất cho tình yêu nước của cái Ta dân tộc mà Đảng đã thành công xây dựng. Nhưng từ khi lên đến đỉnh cao quyền lực trong một đất nước thống nhất thì Đảng Ta, với bản chất độc tài, độc đoán và bất lực, vô minh trên nhiều phương diện trị nước, đã gián tiếp làm suy giảm lòng yêu nước, tinh thần quốc gia, dân tộc của cái Ta Việt tộc.
Nhìn lại Sử lý Việt trong hai thế kỷ qua, Đảng Ta vô tình đã gần như tiếp tay hoàn tất cái mà Thực dân Pháp cũng như đế quốc Tàu đã thất bại – đó là chủ trương tiêu diệt ý chí tổ quốc và tinh thần yêu nước của dân Việt. Đảng Ta và Thực Dân Pháp là hai khuôn mặt của một đồng tiền vốn nay đã hoàn tất xong Thời quán lịch sử và đã không còn mang giá trị Sử tính.
Vượt biên, Di cư là Ý chí Phủ định Quốc gia
Ở đầu thế kỷ XXI, cái Ta dân tộc trên cơ bản cá nhân đang dần hồi sinh trở lại trong ý chí cá thể. Nhưng khi nhìn cục diện và bản chất đại thể Đang Là, từ ngày 30 tháng Tư, 1975, cá nhân Việt mang một ý chí tiêu cực và thụ động mới. Lần đầu tiên, cái Ta cá nhân muốn từ bỏ tổ quốc, xem nhẹ lòng ái quốc, để lên đường ra khỏi nước, để định cư làm lại cuộc đời cho mình và cho các thế hệ con cháu ở một quốc gia văn minh, tiến bộ và đạo đức hơn.
Khi xách gói lên đường ra biển, hay vượt biên đường bộ, hay di cư bằng đường bay quốc tế, cái Ta dân tộc này không những chỉ muốn phủ định Đảng Ta, hay guồng máy công quyền của nhà nước, mà là cái Ta đại thể tổ quốc mà Đảng Ta đang chiếm giữ. Từ trong sâu thẳm của năng lực Tự ý thức về Ta và về khách thể, về Đại thể tính Tổ quốc, cái Ta Việt không mang hy vọng gì ở ý chí lịch sử của con người Việt Nam – không những chỉ ở nơi Đảng Ta, mà là của cả giống nòi Việt tộc trên bàn cờ biện chứng khả thể cho một tương lai Sẽ Là cho đại cuộc. Hắn sợ hãi Việt Nam như là một tổ quốc chung, cảm thấy rất bất an về tương lai, ngao ngán con người dân tộc – như là sợ hãi tình trạng giao thông, ô nhiễm môi trường hay là an ninh cá nhân ngay trong nhà ở của mình.
Dĩ nhiên không chỉ có ở Việt Nam thì mới có câu chuyện dân chúng ào ạt bỏ nước ra đi định cư ở các nước Âu Mỹ. Đây là thảm kịch của thời đại mới khi truyền thông đã nâng cao khả thể tự ý thức cho nhân loại. Thế kỷ trước, di cư là một hiện tượng thành thị hóa khi dân quê nông nghiệp bỏ làng xóm lên phố thị sinh sống. Nay thì họ vượt biên giới quốc gia, vượt qua ý chí tổ quốc, để trở thành những con người thế giới đi tìm đồng cỏ mới cho thế hệ kế tiếp.
Nhưng khi Ta nói về hiện tượng bỏ nước ra đi của dân tộc Việt, Ta nhìn thấy được cái biên độ giới hạn của chủ nghĩa quốc gia, tình yêu nước mù quáng và cực đoan. Cộng thêm trình độ quản lý yếu kém bởi một tập thể cán bộ, đảng viên với ý thức hạ cấp, Đảng Ta đã tạo nên một phản ứng thuần phủ định đối với ý thức về quốc gia đại thể.
Tuy nhiên, trên trường biện chứng cho năng lực tự ý thức về Ta mà Đảng Ta đã nắm đầu giây cương lĩnh, cái Ta dân tộc trong tiến trình phát huy tính tiêu cực trong ý chí phủ định chủ nghĩa quốc gia cũng đồng thời đang vươn về một chân trời khả thể mới.
Đó là ý thức nhân loại phổ quát: Khi nhìn vào cái Ta cá nhân trên bình diện con người như là con người phổ biến, chứ không phải chỉ là dân tộc giới hạn. Bản sắc tự ý thức của họ đang được giải phóng ra khỏi biên giới quốc gia chật hẹp để đi ra biển lớn với cộng đồng nhân loại. Họ nhận chân rằng chân lý cứu cánh về tự do, công lý và hạnh phúc không tuỳ thuộc vào chủ nghĩa Quốc gia. Con người phải biết hành hoạt và tồn tại trên cơ sở con người có ý thức – chứ không phải là một thành phần của một tập thể bị chi phối bởi biên giới chủng tộc và địa lý.
Nên nhớ rằng chủ nghĩa Cộng sản cũng chủ trương một cứu cánh tính vượt qua biên giới quốc gia và dân tộc. Tuy nhiên sự khác biệt giữa hai giòng ý chí – giữa chủ nghĩa quốc tế Marxist và phong trào di cư tỵ nạn gần đây – nằm ở nơi biện chứng nguyên nhân và hệ quả. Ý chí quốc tế của người Cộng sản là nguyên nhân cho ý chí Sử lý vô tổ quốc. Còn ý chí di cư, từ bỏ quốc gia, dân tộc là hậu quả của chủ nghĩa quốc gia và những hệ luỵ tiêu cực của nó. Cả hai là đối tính phản diện trên một đồng tiền của năng lực tự ý thức về Ta mà trên hành trình Sử lý, cái Ta dân tộc và quốc gia cuối cùng cũng sẽ phải được vượt qua.
Khả thể Nhân thức
Ý chí lịch sử Marxism mà Hồ Chí Minh đem đến cho Việt Nam cũng như cái gia sản tiêu cực thuần phủ định mà Đảng của Ông để lại cho dân tộc đã đóng góp cao độ cho hành trình Tự ý thức đó. Quốc gia đối với cái Ta cho chân lý hoàn vũ cuối cùng thì cũng chỉ là một Thời quán tiến hóa – vốn phải được vượt qua. Cái gì được xác định tối đa cũng rồi cuối cùng bị triệt để phủ định. Chủ nghĩa Quốc gia, tinh thần yêu nước của Việt Nam đã tiêu thụ hết năng lượng của Thời đại. Cá nhân Việt nay là khối nhân loại trống rỗng về tình yêu nước, ý thức công dân, và ý chí chính trị. Tương lai Việt Nam sẽ được định đoạt bởi khoảng trống tinh thần nầy.
Ngoại trừ cái Ta Việt đứng dậy trong khả thể Tự ý thức mới – khi cá nhân là hiện thân cho giá trị nhân loại phổ quát vượt qua biên giới quốc gia, dân tộc. Tôi gọi nó là khả thể Nhân thức – the Individuated Universal. Nhân thức chính là cứu cánh lịch sử – chứ không phải là quốc gia dân tộc.
Từ đó, Đảng Cộng sản của HCM đã thành công rất lớn trong việc hoàn tất vở kịch vô thức cho Sử tính Việt Nam – mà trên bình diện siêu hình thì tất cả những thăng trầm bi tráng của dân tộc nầy chẳng qua chỉ là một trường hiện tượng biện chứng “giảo hoạt của Trí năng” – the cunning of Reason – mà Hegel nói đến.
(Trích từ “Sử Tính và Ý Thức: Một Triết học cho Sử Việt,” XIII (California: NXB Sống, 2016)).
Cái bài của việt gian đánh mướn cho Tàu cộng nầy chẳng ai thèm vào bình luận…lại được đcv duy trì mãi đây, không sớm dẹp đi, là sao?
Vẫn còn thời hạn hợp đồng chưa hết hả?
Cả một lũ việt gian cùng nhau phá hoại mồ mả tổ tiên! Nhục!
Xin gửi tình yêu mến sâu xa đến cùng người Việt Nam với ý chí mạnh mẽ của một quốc gia Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa, không còn cộng sản, cho tự do độc lập và nhân quyền.
“Nhân nghĩa lễ trí tín, linh hồn của Nho Giáo, hun đúc tình tự dân tộc, sức mạnh và ý chí sống trong danh dự của con người: KHÔNG CHẤP NHẬN NÔ LỆ, ĐỒNG HOÁ. Nhớ câu tiết nghĩa “ THÀ LÀM QUỶ NƯỚC NAM CÒN HƠN LÀM VƯƠNG ĐẤT BẮC” của Nho Sĩ Trần Bình Trọng khi bị sa vào tay giặc Tàu.”
Xin phép được trích đoạn từ Đông Lan. Trân trọng cảm ơn t/g Đông Lan.
Đông Lan: Chính trị và Văn hóa: Political Culture??? minhtrietviet .net/dong-lan/
“Sức mạnh của Văn Hoá có thể ngụ ý trong câu nói truyền tụng rộng rãi trong chúng ta mà ai cũng còn nhớ là “ Người làm thầy thuốc mà sai lầm thì hại một mạng người. Người làm chính trị mà sai lầm thì hại một thế hệ. Người làm văn hoá mà sai lầm thì hại đến muôn đời”.
…
“Ba nền văn hoá chính của 5000 năm lịch sử của ta là : Văn hoá Nho Giáo, văn hoá Phật Giáo, và gần đây là văn hoá Thiên Chúa Giáo. ( Cộng sản là tổ chức chính trị, dù có thuyết Marx, Lenin dẫn đường , nhưng không phải là văn hoá, cho nên, nó chỉ tồn tại trong dân tộc ta từ 1930 đến ngày hôm nay 2009, mới chỉ 79 năm mà sự tẩy chay của dân tộc Việt đã lên đến cực độ. Việc nó bị vĩnh viễn loại bỏ khỏi cơ thể Việt vì dị ứng với dân tộc tính là việc của năm và tháng mà thôi. Cũng như nó chỉ sống với Liên Bang Sô Viết 72 năm (1917-1989) rồi ra đi nhẹ nhàng như một người bệnh nặng trút hơi thở cuối là chuyện đương nhiên không tránh khỏi. Cách trút hơi cuối của mỗi con bệnh Cộng sản của mỗi cơ thể bệnh nhân khác nhau và đó là hậu quả tất nhiên của chính trị. Mà lại còn là chính trị bá đạo nữa thì vì sự sống, sự trường tồn của bất cứ dân tộc nào, họ không để yên cho con bệnh hoành hành. Bản năng sinh tồn của loài người, của chủng tộc, của sắc dân là nguyên động lực, là cứu cánh , là phương tiện sa thải độc tố , vi trùng, bệnh hoạn. Sự non yểu của lý thuyết và chế độ Cộng Sản trong lịch sử loài người và dân tộc chỉ là sự tự nhiên như lề luật sống mà thôi). Trở lại với ba dòng văn hoá chính của dân tộc Việt là Nho, Phật, Chúa, đó là cái mà người ta còn gọi là Còn Lại sau bao thăng trầm lịch sử. Nho và Phật đã chứng minh sức mạnh của Văn Hoá trong hàng ngàn năm . Còn Thiên Chúa Giáo mới chỉ góp mặt khiêm nhường trong lịch sử Việt mới vài thế kỷ, từ thế kỷ 17 mà thôi. Sự hiện diện này còn trong những nghi vấn, vì những cách thái xuất hiện của nó đồng hành với bước chân của thực dân Pháp. Đó là một vấn nạn lớn mà những nhà viết sử chân thực, nhà văn hoá chính danh, và nhất là lương tri trong sáng của dân tộc sẽ thẩm định. Tuy nhiên các nỗ lực của các công trình đưa tư duy tôn giáo tiệm cận với dòng Văn Hoá Dân Tộc – nếu có – sẽ được sáng tỏ trân trọng theo thời gian cùng với sự thẩm định trên, vì lịch sử vẫn còn mới mẻ: Ba trăm năm có là bao so với 5000 năm của hành trình Lạc Việt.”
…
“VIỆT NHO THEO KIM ĐỊNH LÀ NHO TRƯỚC THỜI KHỔNG TỬ. Chính Khổng Tử mới “ Công Thức Hoá” Việt Nho thành Ngũ Kinh và cứ thế truyền lưu cho đến thời Hán thì nhà Hán sử dụng Nho Giáo trong chính trị phong kiến, làm xa dần yếu tính Nhân Bản của Nho Chân Thực – Việt Nho, tức là Nho Nguyên Thuỷ.
“Vì phải bị nạn đồng hoá tàn khốc của người Hán hàng ngàn năm, sử sách bị tiêu hủy , tài liệu thì toàn căn cứ theo sử Tàu, Tây, nên sự thật lịch sử bị vùi lấp, nên ai cũng ngộ nhận Nho là của Tàu. Bao năm tủi hờn phải chịu tiếng học Nho vay mượn, nay nhờ có Khám Phá Việt Nho và lại có Khoa Học kiện chứng, ta thêm tự tin – điều kiện tinh thần làm động lực vươn lên – về quyền làm chủ Văn Hoá mình. Nếu ai là người Việt yêu văn hoá Việt thật lòng, thì theo cảm nhận bình thường, cũng có niềm hãnh diện dù chưa có dịp tìm hiểu để tăng thêm lòng tự hào Việt Tộc . Chưa xác tín Việt Nho, mà xưa kia, tổ tiên ta tuy học theo Nho về Văn hoá, còn về chính trị, khi bị xâm lăng, ta vẫn đánh Tàu không còn manh giáp. Huống chi ngày nay, thêm Việt Nho, ta lại càng thêm một sức mạnh tinh thần, vũ khí tư tưởng chống xâm lăng. Nhất là khôi phục niềm TỰ HÀO CHÂN CHÍNH về Nguồn Gốc và Văn Hóa của dân tộc- Một vấn đề tối quan trọng để THỐNG NHẤT lòng người Việt muôn nơi giữa cơn phân tán này, trong bao vong thân vì thực dân và cộng sản. Ai là người Việt mà không còn nhớ việc Tổ Tiên ta đánh Tàu nhưng vẫn theo Nho, thực hiện Nho. Vì chính trong Nho, ta phát huy thêm lòng yêu người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do. Nhân nghĩa lễ trí tín, linh hồn của Nho Giáo, hun đúc tình tự dân tộc, sức mạnh và ý chí sống trong danh dự của con người: KHÔNG CHẤP NHẬN NÔ LỆ, ĐỒNG HOÁ. Nhớ câu tiết nghĩa “ THÀ LÀM QUỶ NƯỚC NAM CÒN HƠN LÀM VƯƠNG ĐẤT BẮC” của Nho Sĩ Trần Bình Trọng khi bị sa vào tay giặc Tàu . Và suốt bao ngàn năm lịch sử, hàng bao thời đại, các nho gia, hiền nhân quân tử đã hy sinh thân mình chống giặc giữ nước. Những triều đại chống Tàu nhiều nhất lại xây dựng Nho nhiều nhất: Hãy xem lại lịch sử nhà Lê với Nho Sĩ Nguyễn Trãi “ Bình Ngô Đại Cáo”, với vua Lê Thánh Tôn thực hiện đạo Nho, làm cho dân giầu nước mạnh, văn hoá nhân đạo uy danh một phuơng Nam. Mà tính chất Nhân Bản của Bộ luật Hồng Đức 1483 còn đi trước Hiến Chương về Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948 cả đến gần 500 năm, và được các thức giả quốc tế ngày nay ca ngợi. Tổ Tiên ta Học Nho và Đánh Tàu xong rồi lại quay về nghiền ngẫm Tứ Thư Ngũ Kinh là thái độ của dân tộc có Văn Hiến, vượt qua cái nhìn giới hạn của không thời để vươn lên sống với Chân Thiện Mỹ bao la trường cửu của Văn Hoá.
“Theo đúng lý tưởng Chính Danh, Danh phải đi đôi với Thực, từ phải chở nổi ý, thì làm chính trị là việc làm “ NGAY CHÍNH ” lại mọi sự còn nghiêng lệch ở đời ( Chính giả, Chính dã) . Nếu như thế thì chính trị là việc làm có ý nghĩa cao đẹp, phục vụ sự thật, lẽ phải, cùng giúp nhau xây dựng một đời sống thiện mỹ hơn. Đó là khi mà Chính Trị còn nền tảng Văn Hoá làm điểm tựa, chính trị được móc nối với Nhân Đạo, với các giá trị bền vững của Dân Tộc. Trên thực tế, lý tưởng đã khó thực hiện. Mà lại còn vì cuộc sống văn minh lý trí khiến con người vụ lợi thì nhiều mà vì Nghĩa thì ít. Nhiều khi người làm chính trị mải mê chạy theo trào lưu, quyền lợi nhất thời, dùng mọi cách để mị dân chứ không còn mục đích hướng dẫn nhau theo chiều hướng chân chính nữa.
“Nhưng nếu trở về với Chính Danh, thì Chính Trị cũng là một phương tiện để thực hiện các giá trị trường cửu như Văn Hoá. Việc chống bạo quyền và xâm lăng đồng hành với việc nghiên cứu Việt Nho- Một nền tảng của năm ngàn năm Văn Hiến, mà người Việt chúng ta vẫn tự hào.”
Bài này không có chỗ cho phét sủa nhỉ!
Theo tôi thì cái ta của con người nếu được sinh động hóa sẽ là một sinh vật hay đói bụng, Cái Ta sẽ chết hoặc còi cọc nếu phải sống với CS nên Cái Ta phải tìm đất lành cho chim đậu. Cái Tôi của con người nếu cũng được sinh động hóa sẽ trở thành một sinh vật biết khinh ghét sự giả dối, biết căm giận sự độc ác, biết kính trọng sự đạo đức, biết mến yêu sự nhân ái mà vì thế nếu phải sống với CS thì nó hoặc sẽ bị giết hay sẽ còi cọc lụi tàn, do đó phải gạt nước mắt rời bỏ quê hương hoặc cố lấy trứng để chọi đá. Tôi chắc là bọn dlv cộng sản (Phét Lác) sẽ không hiểu được những giòng chữ này vì chúng chỉ biết đảng ta, chúng ta, chúng ông mà thôi !!!
Chẳng hiểu sao, sau khi đọc xong bài chủ tôi bỗng nhớ đến ông bác họ xưa ở Tân Bình SG, vào một buổi chiều mưa lất phất tay cầm xị đế ngửa mặt lên trời gào to ” ối giời ơi, đàn bà là con dắn độc ” rồi lạng quạng bước đi miệng nghêu ngao “đứng đái làm chi cho mất công, vừa đi vừa đái vẽ nên dồng”.
Cái gọi là “sử tính” của Vi xi nhà ta và những tên theo đóm
ăn tàn là : phét lác và côn đồ .
“Cho đến khi cắm được lá cờ đỏ sao vàng trên nóc dinh
Độc Lập ở Saigon …,Đảng ta đã quy tụ cả một thế hệ Vàng
với những đảng viên đại diện cho tầng lớp tinh hoa ưu tú
nhất của Thời Đại .Từ trong ý thức về thân phận con người
phổ quát ,trên hành trình xương máu và hy sinh ,Đảng ta
đã rất xứng đáng để đi vào huyền thoại Sử tính dân tộc ”
Trích lời Ngài Còi hụ Ng Hữu Liêm .
Thằng ít học ,có cái ngôn ngữ phét lác của thằng ít học .
Đứa học được dăm ba chữ về triết ,có cái ngôn ngữ “đao
to búa lớn ” pha ngôn ngữ triết . Nhưng tựu trung thì vẫn
là phét lác kiểu lai căng tí triết học .
Nâng bi kiểu này đáng được phần thưởng “còi hụ “.
Dr Nguyễn Hữu Liêm bị méo mó nghề nghiệp rồi
Họ Hồ học chưa hết bậc tiểu học, Duẩn lớp một trung học làm nghề bẻ ghi tầu hỏa … thì biết quái gì về triết lý mác xít Lê ni nít
Đơn giản thôi, họ thèm thuồng cái miền Nam có vựa lúa cò bay thẳng cánh chó chạy ngay đuôi
Hồi xa xưa, giữa thập niên 60 tôi có học môn triết mấy năm, giờ bỏ không theo vì nó cũng hơi rắc rối cuộc đời
Xin lỗi Dr Liêm nhá, đừng buồn, tôi không có ý gì đâu !!!
Hà Nội and Hà Nam Ninh province is the birthplace of the Vietnamese King.
Tỉnh Hà Nội và Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.
Bản gốc. Bản Nguồn gốc (Historian write full). Chủ đề: Thú vị, rất hay. Gửi Báo chí, truyền hình, Wikipedia, nhà xuất bản sách, viết bài này giúp. Cảm ơn. Giúp đỡ, viết, nhanh. Cảm ơn. Lịch sử Việt Nam.
Chủ đề: tỉnh Hà Nội và Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt. Tỉnh Hà Nam Ninh, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, cũ.
-Người xưa có câu: Vua miền Bắc. -Bản gốc. Bản Nguồn gốc. (Historian write full).
Topic: Hà Nội and Hà Nam Ninh province is the birthplace of the Vietnamese King.
Hà Nam Ninh Province (now, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình)
-Người xưa có câu: Vua miền Bắc. -Bản gốc. Bản Nguồn gốc. (Historian write full).
Lịch sử Việt Nam.
Gửi Báo chí, truyền hình, Wikipedia, nhà xuất bản sách, viết bài này giúp. Cảm ơn.
Giúp đỡ, viết, nhanh. Cảm ơn.
Lịch sử Việt Nam. Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Việt Nam sử lược, Đại Việt sử ký tiền biên, An Nam chí lược, viết:
Quê quán, nơi phát tích của Vua, Chúa, Việt Nam.
Tỉnh Hà Nội, Hà Nam Ninh (Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, cũ).
Sách in giấy khác sách điện tử, khác internet, khác năm xuất bản, khác năm chỉnh sửa.
Sách viết ở Thế kỷ 1, thế kỷ 2, thế kỷ 3, thế kỷ 8, thế kỷ 9, thế kỷ 10. Sách trước thế kỷ 14, 15, 16, 17, sách trước năm 1977, trước năm 2000, viết:
-Vua Ngô Quyền (nhà Ngô), người Hà Nội, xứ Đoài. Tổ tiên của Ngô Quyền, người Hà Nội, xứ Đoài, Quận Giao Chỉ. Nguồn gốc của Ngô Quyền là người Hà Nội, xứ Đoài, Giao Chỉ. Cụ tổ của Ngô Quyền, người Hà Nội, xứ Đoài. Ông nội của Ngô Quyền là người Hà Nội, xứ Đoài. Bố của Ngô Quyền là người Hà Nội, xứ Đoài. Mẹ Ngô Quyền là người Hà Nội, xứ Đoài. Miền Bắc.
-Vua Lê Hoàn (nhà Tiền Lê), người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Lê Hoàn, người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Lê Hoàn là người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Lê Hoàn, người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Ông nội của Lê Hoàn là người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Bố của Lê Hoàn là người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Mẹ Lê Hoàn người Hà Nam, xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Vua Lê Lợi (nhà Hậu Lê), người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Lê Lợi, người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Lê Lợi là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Lê Lợi, người Hà Nam Ninh (nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay), xứ Sơn Nam. Ông nội của Lê Lợi là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Bố của Lê Lợi là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Mẹ Lê Lợi là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Chúa Trịnh, người Thăng Long, Hà Nội. Tổ tiên của Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Nguồn gốc của Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Cụ tổ của Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Ông nội của Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Bố của Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Mẹ Chúa Trịnh là người Thăng Long, Hà Nội. Miền Bắc.
-Chúa Trịnh Kiểm, người Hà Nội. Tổ tiên của Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Nguồn gốc của Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Cụ tổ của Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Ông nội của Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Bố của Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Mẹ Trịnh Kiểm là người Hà Nội. Miền Bắc.
-Chúa Trịnh Tùng, Người Hà Nội. Tổ tiên của Trịnh Tùng là người Hà Nội. Nguồn gốc của Trịnh Tùng là người Hà Nội. Cụ tổ của Trịnh Tùng là người Hà Nội. Ông nội của Trịnh Tùng là người Hà Nội. Bố của Trịnh Tùng là người Hà Nội. Mẹ Trịnh Tùng là người Hà Nội. Miền Bắc.
-Chúa Nguyễn (nhà Nguyễn), người Hà Nam Ninh (nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay), xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Ông nội của Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Bố của Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Mẹ Chúa Nguyễn là người Hà Nam Ninh, xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Nguyễn Kim, người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, người xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, người xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Ông nội của Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Bố của Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Mẹ Nguyễn Kim là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Nguyễn Hoằng Dụ, người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, người xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, người xứ Sơn Nam. Ông nội của Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Bố của Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Mẹ Nguyễn Hoằng Dụ là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Nguyễn Hoàng, người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, xứ Sơn Nam. Tổ tiên của Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Nguồn gốc của Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay, người xứ Sơn Nam. Cụ tổ của Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam, nguồn gốc tỉnh Ninh Bình ngày nay. Ông nội của Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Bố của Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Mẹ Nguyễn Hoàng là người Hà Nam Ninh, người xứ Sơn Nam. Miền Bắc.
-Bà Triệu, người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Tổ tiên của Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Nguồn gốc của Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Cụ tổ của Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Ông nội của Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Bố của Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Mẹ Bà Triệu là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, Hà Nội. Miền Bắc.
-Mai An Tiêm, người Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Tổ tiên của Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Nguồn gốc của Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Cụ tổ của Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Ông nội của Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Bố của Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Mẹ Mai An Tiêm là người Hà Nội, Mê Linh, Vĩnh Phúc, tỉnh Hà Nội. Miền Bắc.
-Hồ Quý Ly (nhà Hồ), Nguồn gốc quê ở tỉnh Ninh Bình. Tổ tiên quê ở tỉnh Ninh Bình (Hà Nam Ninh, cũ).
-Dương Đình Nghệ, nguồn gốc quê quán ở tỉnh Bắc Ninh.
-Đào Duy Anh, nguồn gốc quê ở Thanh Oai, Hà Tây, nay là Hà Nội.
-Lê Văn Hưu (nhà sử học), nguồn gốc quê quán ở Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
-Lê Tắc, nguồn gốc quê quán ở Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội.
-Đào Duy Từ, nguồn gốc quê quán ở xã Ngọc Sơn, tỉnh Bắc Giang.
-Lê Trang Tông (nhà Lê Trung Hưng), nguồn gốc quê quán ở tỉnh Ninh Bình.
-Người sinh ra ở Miền Bắc thì có mưu trí. Sĩ tử thích văn học, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người khéo tay, người có kỹ năng sống. -Người xưa có câu: Vua miền Bắc, Vua xứ Sơn Nam. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc Việt Nam gọi là Giao Chỉ. Miền Bắc gọi là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Miền Trung Việt Nam gọi là Cửu Chân, Nhật Nam. Thanh Hóa là miền Trung. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Hòa Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam, Ái Châu tên gọi Hà Nội Việt Nam, Châu Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam. Miền Bắc là Giao Chỉ. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Trung là Cửu Chân. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Thanh Hóa là Miền Trung. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,Thanh Hóa là Miền Trung, là Bản đồ đúng, chính xác. Historian. Write.
-Miền Bắc là tất cả các tỉnh từ tỉnh Hà Giang đến tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình. Tất cả Vua, Chúa là người miền Bắc Việt Nam.
-Thanh Hoá là tỉnh miền Trung Việt Nam.
-Không viết người Thanh Hoá, không viết quê quán Thanh Hoá. Vua, Chúa không phải người Thanh Hoá.
-Sách sau năm 2002, viết, chỉnh sửa, chỉnh sửa năm, viết Vua, Chúa là ở Thanh Hoá là sai. Tên địa danh không phải ở Thanh Hoá, Vua không ở Thanh Hoá, Vua không phải người Thanh Hoá.
-Người xưa có câu: Vua miền Bắc, Vua xứ Sơn Nam. Historian. Write.
-Câu nói: Vua xứ Thanh, Thần xứ Nghệ là câu nói bị sửa và câu nói này xuất hiện trên internet từ năm 2012, 2013. Và dân Thanh Hoá chỉnh sửa, viết sai. Câu nói này không đúng. Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ là viết sai, từ ngữ không đúng, bị chỉnh sửa, bịa đặt, sai trái.
-Câu nói: Vì sao Thanh Hóa là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt là lừa đảo, bịa đặt, sai trái. Bịa đặt, từ nhiều năm 2002, 2004, 2005, 2009, 2010, 2012, 2013, 2015, khi chỉnh sửa sách, báo chí. Câu nói sai.
-Câu nói: Vua xứ Thanh Thần xứ Nghệ là lừa đảo, bịa đặt, sai trái. Bịa đặt, từ nhiều năm 2002, 2004, 2005, 2009, 2010, 2012, 2013, 2015, khi chỉnh sửa sách, báo chí. Câu nói sai.
-Câu nói: Thanh cậy thế Nghệ cậy Thần là lừa đảo, bịa đặt, sai trái. Bịa đặt, từ nhiều năm 2002, 2004, 2005, 2009, 2010, 2012, 2013, 2015, khi chỉnh sửa sách, báo chí. Câu nói sai.
-Sách viết, chỉnh sửa, chỉnh sửa năm xuất bản là sai, viết Vua là người Thanh Hoá là sai, không đúng. Sách viết từ năm 2002, sau năm 2003, viết quê quán Thanh Hóa là sai, không là Thanh Hóa, quê quán không là Thanh Hóa, không Thanh Hóa. Bị chỉnh sửa quê quán của Vua. Thêm từ ngữ, thêm chữ, bớt chữ.
-Đã bị gõ, chỉnh sửa ghi là Thanh hoá là không đúng. vì vậy, không nên ghi tên Thanh hoá, Trịnh Kiểm không phải người Thanh hoá. đây là dân Thanh hoá tự nhận, nhưng không đúng. Thế kỷ 20, 21 đặt tên phố, tên xã chỉ là đặt tên danh nhân, ở đâu cũng có tên, nhưng không phải nơi sinh ra. Trịnh Kiểm là người miền Bắc Việt Nam. các sách, báo điện tử đọc thông tin trên internet từ năm 2004, 2005, 2006 về sau viết quê quán Thanh hoá là sai. Kinh thành Thăng Long, vùng ven ngoại thành Thăng Long, Hà Nội, có nhiều người họ Trịnh. Nguồn gốc, tổ tiên họ Trịnh rất nhiều.
-Sách in giấy khác sách điện tử, internet, khác năm xuất bản. sách in giấy thế kỷ 15, 16, trước năm 2000, không viết quê quán Thanh Hoá, chỉ viết tên địa danh nơi bố mẹ sinh sống, Lê Lợi sinh ra. Tên địa danh không phải là Thanh Hoá. sách điện tử, internet sau năm 2002, đã bị gõ, chỉnh sửa ghi là Thanh Hoá, Lam sơn, Lam Giang là không đúng. vì vậy, không nên ghi tên Thanh Hoá, Lê Lợi không phải người Thanh Hoá. đây là dân Thanh Hoá tự nhận, nhưng không đúng. Thế kỷ 20, 21 đặt tên phố, tên xã chỉ là đặt tên danh nhân, ở đâu cũng có tên, nhưng không phải nơi sinh ra. Lê Lợi là người miền Bắc Việt nam, các sách, báo điện tử đọc thông tin trên internet từ năm 2004, 2005, 2006 về sau viết quê quán Lam Sơn Thanh Hoá là sai, Lam Giang khác Lam Sơn. Historian. Write.
Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh không quê ở xứ Thanh. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở Hà Nam Ninh xứ Sơn Nam. Chúa Trịnh quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Xem bài viết Chủ đề: “tỉnh Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.” là đúng, chính xác. Chùa Hương Tích ở Hà Nội thật ra chỉ là một “phiên bản” đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN. Bùi Văn Nguyên lừa đảo viết sách, nói sai. Chùa Hương Tích ở Hà Nội là chùa gốc, là đúng, chính xác. Chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Historian. Write. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Hòa Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam, Ái Châu tên gọi Hà Nội Việt Nam, Châu Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam. Miền Bắc là Giao Chỉ. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Trung là Cửu Chân. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,Thanh Hóa là Miền Trung là Bản đồ đúng, chính xác. (Historian. Write.)
Quê Vua Ngô Quyền quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Quê Phùng Hưng quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Đường Lâm, Hà Nội vùng đất hai vua. Xem bài viết Chủ đề: “tỉnh Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.” là đúng, chính xác. PGS.TS. Trần Ngọc Vương (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Nguyễn Tô Lan và Trần Trọng Dương là lừa đảo viết sách, nói sai. Đường Lâm, Sơn Tây ở Hà Nội là quê gốc, là đúng, chính xác. Người sinh ra ở Miền Bắc thì có mưu trí. Sĩ tử thích văn học, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người khéo tay, người có kỹ năng sống. Các nhà khoa học đều nhất trí quê hương của Ngô Quyền, Phùng Hưng ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội), theo báo Dân Trí. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Hòa Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam, Ái Châu tên gọi Hà Nội Việt Nam, Châu Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam. Miền Bắc là Giao Chỉ. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Trung là Cửu Chân. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Thanh Hóa là Miền Trung. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,Thanh Hóa là Miền Trung, là Bản đồ đúng, chính xác. Historian. Write. Nguồn: Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Việt Nam sử lược, Đại Việt sử ký tiền biên, An Nam chí lược. Quê Vua Ngô Quyền quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Quê Phùng Hưng quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Đường Lâm, Hà Nội vùng đất hai vua. Chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh không quê ở xứ Thanh. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở Hà Nam Ninh xứ Sơn Nam. Chúa Trịnh quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc.
Ngáo đá, hay bị wuhan covid thời kỳ chót?
Thuở xa xưa vùng đất chọn làm đế đô nhiều triều đại khác nhau lần lượt mang tên thành Đại La, rồi Thăng Long, có lúc lại đổi thành Đông Đô. Đó là chuyện cả nghìn năm trước, tên Hà nội chưa ra đời.
Mãi đến năm 1831 vua Minh Mạng mới lập ra tỉnh Hà Nội, có nghĩa là tỉnh nằm giữa/trong (tức là nội) hai con sông (tức là hà), là sông Hồng và sông Đáy. (Đất nằm trong phạm vi 2 con sông gọi là hà nội)
Ngô Quyền sinh ngày 17 tháng 4 năm 898 tại châu Đường Lâm, Ái Châu, nay thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa.
“Quê Vua Ngô Quyền quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc.: không là ngáo đá, thì là ngu mà thêm điên nữa, phải không?
*Nói Ngô Quyền sinh ở Hà nội là chẳng hiểu biết gì về lịch sử nước ta; còn bày đặt lên đồng lắc lư nói bậy, viết dài thoòng cả mấy nghìn chữ vô nghĩa lý. Khùng!
Note, important.
Topic: interesting, very good.
Gui bao chi, truyen hinh, viet bai nay giup, day la thong tin viet bai:
Khi gõ tìm kiếm google, youtube, chữ ( các câu chữ tạo ra để viết sai lịch sử ): Vì sao Thanh Hóa là “cái nôi” sản sinh vua chúa Việt, Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ, thanh vô tiền nghệ vô hậu, Tại sao Thanh Hóa được gọi là tiểu vương quốc, Quan xứ Nghệ không bằng lính Lê xứ Thanh, Thanh cậy thế Nghệ cậy thần, Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch sử Việt Nam. đây là bài viết sai, Sách viết sai, sai trái.
Các Nhà sử học Việt Nam làm gián điệp cho nước ngoài, sửa lại sách lịch sử, viết sai sách lịch sử, tạo ra câu chữ, bài viết nói trên, nên nhiều sách lịch sử Việt Nam viết theo, viết bị sai trái, đây là lừa đảo viết sách lịch sử. Nhiều sách viết sai Quê Quán Vua Chúa của việt nam. Các bài viết sai trái, xem link web. và nhiều bài viết khác, video khác. Historian. USA. England. Write.
Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh không quê ở xứ Thanh. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở Hà Nam Ninh xứ Sơn Nam. Chúa Trịnh quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Xem bài viết Chủ đề: “tỉnh Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.” là đúng, chính xác. Chùa Hương Tích ở Hà Nội thật ra chỉ là một “phiên bản” đầy ý nghĩa của chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, theo dẫn giải của ông Bùi Văn Nguyên, nguyên tổng thư ký Hội Văn nghệ dân gian VN. Bùi Văn Nguyên lừa đảo viết sách, nói sai. Chùa Hương Tích ở Hà Nội là chùa gốc, là đúng, chính xác. Chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Historian. Write. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Hòa Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam, Ái Châu tên gọi Hà Nội Việt Nam, Châu Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam. Miền Bắc là Giao Chỉ. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Trung là Cửu Chân. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,Thanh Hóa là Miền Trung là Bản đồ đúng, chính xác. (Historian. Write).
Quê Vua Ngô Quyền quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Quê Phùng Hưng quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Đường Lâm, Hà Nội vùng đất hai vua. Xem bài viết Chủ đề: “tỉnh Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.” là đúng, chính xác. PGS.TS. Trần Ngọc Vương (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội), Nguyễn Tô Lan và Trần Trọng Dương là lừa đảo viết sách, nói sai. Đường Lâm, Sơn Tây ở Hà Nội là quê gốc, là đúng, chính xác. Người sinh ra ở Miền Bắc thì có mưu trí. Sĩ tử thích văn học, nông dân chăm cày cấy, thợ thì có người khéo tay, người có kỹ năng sống. Các nhà khoa học đều nhất trí quê hương của Ngô Quyền, Phùng Hưng ở Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội), theo báo Dân Trí. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Miền Bắc văn hóa lâu đời. Thanh Nghệ Tĩnh là Miền Trung. Hòa Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam, Ái Châu tên gọi Hà Nội Việt Nam, Châu Ái tên gọi Hà Nội Việt Nam. Miền Bắc là Giao Chỉ. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Bắc là Ái Châu, Tượng Quận. Miền Trung là Cửu Chân. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Thanh Hóa là Miền Trung. Giao Chỉ sau đổi tên là Ái Châu, Tượng Quận. Cửu Chân là tên gọi từ Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,Thanh Hóa là Miền Trung, là Bản đồ đúng, chính xác. Historian. Write. Nguồn: Sách Đại Việt sử ký toàn thư, Việt Nam sử lược, Đại Việt sử ký tiền biên, An Nam chí lược. Quê Vua Ngô Quyền quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Quê Phùng Hưng quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc. Đường Lâm, Hà Nội vùng đất hai vua. Chùa Hương Tích trên núi Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh là Miền Trung lừa đảo viết sách, nói sai. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh không quê ở xứ Thanh. Thời Lê – Trịnh, các vua Lê – chúa Trịnh phần lớn có quê ở Hà Nam Ninh xứ Sơn Nam. Chúa Trịnh quê gốc là Hà Nội. Hà Nội gốc.
“không có gì chóng củ bằng Tư tưởng Triết học”! .Thật vậy,từ cổ đại môt số Tôn giáo đả cho rằng Trái đất Hình vuông ! Các nhà thám hiểm đả chứng minh thực tế : Trái đất hình tròn! Các Tôn giáo đả thức tỉnh và mạnh dạn thay đổi để tồn tại và phát triển! Tương tự như thế ,chủ nghĩa Mac-Lenin
đả bị chính quốc gia khai sinh ra nó cho vào “sọt rác”,thế nhưng một ít quốc gia “ngu dốt” vẩm ôm lấy nó ,với hy vọng làm nên”cơm cháo” !! Con người là một thưc thể biến động từ Nội tại lẩn ngoại tại! chính nhờ sự biến đổi không ngừng nầy, mà khoa học phát triển.Triết học không ngừng Mới để mở đường cho Tư duy. Ngươc lại CS bắt con người đứng-im-một- chổ
từ phần Hồn lẩn phần xác! Thế thì làm sao Tồn tại được!! Rất dễ hiểu ,sự hủy diêt tất phải đến vì trai Với quy luật! Nếu tồn tại chẳng qua trong dối trá!!