Hổm rầy, không biết ăn nhằm cái giống gì mà các đồng chí lãnh đạo cấp cao (sao) nói năng ví von và điệu đàng hết sức:
- Bí thư Đinh La Thăng: “Đừng để anh Hải thành ngôi sao cô đơn.”
- Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc: “Tây Nguyên như một cô gái đẹp đang ngủ quên trước thời cuộc.”
Vụ anh Hải/anh Thăng, với trăng sao & và hè phố, nghe đã quá mệt rồi nên khỏi bàn thêm nhưng chuyện Tây Nguyên (nơi tôi sinh trưởng) thì buộc phải có đôi lời với ông TT.
Kính thưa ông
Kể từ khi mà người Kinh đặt chân đến Tây Nguyên thì chúng tôi còn có bao giờ được ngủ yên nữa đâu, nói chi tới chuyện “ngủ quên” cho nó thêm phiền. Hôm 11 tháng 3 vừa qua, tại Hội Nghị Xúc Tiến Đầu Tư Vùng Tây Nguyên, vừa nghe ông tuyên bố “tái khẳng định quyết tâm của chính phủ trong việc đầu tư ở các tỉnh Tây Nguyên” là hết thẩy bản làng – bất kể nam, phụ, lão, ấu – đều nhẩy dựng lên hết ráo vì … kinh hoảng!
Cách đây chưa lâu, vị T.T tiền nhiệm (Nguyễn Tấn Dũng) cũng đã từng lớn tiếng tuyên bố: “Khai thác bauxite tại Tây Nguyên là chủ trương lớn của Đảng và Nhà Nước.”
Hậu quả ra sao – nếu ông chưa rõ – xin đọc dòng chữ sau đây, từ báo Công An Nhân Dân, số ra ngày 11/03/2017:
“Tổ hợp bauxit – nhôm Lâm Đồng lỗ hơn 3.700 tỷ đồng sau 3 năm hoạt động.” Cùng ngày, VNEXPRESS còn ái ngại cho biết thêm:
“Thời gian vận hành 3 năm qua, Tổ hợp bô xít – nhôm Lâm Đồng đã nảy sinh một số sự cố, gây ảnh hưởng tới môi trường như vỡ đường ống dẫn nước dư từ hồ bùn đỏ về nhà máy tuyển quặng, hay sự cố rò rỉ ống khói… khiến dư luận hoang mang.”
Tụi tui sợ thấy bà luôn, chớ đâu phải chỉ “hoang mang” thôi – mấy cha! Bùn đỏ chính là một loại bom, bom kiềm, theo như lời giải thích của một chuyên gia có thẩm quyền – kỹ sư Nguyễn Sáng:
“Đối với mỏ Bô Xít Tây Nguyên hàm lượng Ôxít Nhôm trung bình là 50% như vậy cứ 1 tấn alumin được sản xuất thì sinh ra 1 tấn bùn đỏ. Hai dự án bô xít là Nhân Cơ và Tân Rai. Mỗi dự án có 2 hồ chứa bùn đỏ mỗi hồ có dung tích một triệu tấn. Trong đó công suất của Tân Rai 650.000 tấn/năm và Nhân Cơ lên 600.000 tấn/năm. Như vậy chỉ 3 năm là các hồ chứa bùn đỏ sẽ đầy, và để càng lâu thì quả bom sẽ càng lớn.”
So với “sự cố môi trường vùng biển Formosa” thì quả bom bùn đỏ khổng lồ, ở Tây Nguyên, đáng sợ hơn nhiều. Người dưới xuôi mà còn phập phồng thì dân miền núi làm sao mà “ngủ quên” cho được. Sở dĩ chúng tôi không đi biểu tình (như người dân vùng biển) vì chưa lại sức, sau hai đợt đàn áp dã man vào năm 2001 và 2004.
Nếu rảnh, xin ông coi qua tập tường trình, dài 200 trang (Repression of Montagnards: Conflicts over Land and Religion in Vietnam’s Central Highlands) do Human Rights Watch xuất bản. Trong trường hợp ông không đọc tiếng Anh/tiếng U thì có thể xem qua Wikipedia (tiếng Việt, ma dze in Viet Nam, về cuộc biến động hồi năm 2004) cũng được:
“Biểu tình ở Tây Nguyên 2004 là vụ gây rối quy mô lớn của Người Thượng xảy ra vào ngày 10 và 11 tháng 4 năm 2004 tại Tây Nguyên nhằm đòi lập Nhà nước Đề Ga tự trị, đòi đất, đòi tự do tôn giáo do Quỹ người Thượng của Ksor Kok kích động. Với tổng cộng gần 10 000 người tham gia, đồng loạt ở các tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai và Đắk Nông.”
Wikipedia (giọng điệu Hà Nội, như vừa trích dẫn) cũng như những tất cả các cơ quan truyền thông của nhà nước lúc nào cũng lu loa rằng dân Tây Nguyên bị “kích động,” và “có sự xúi giục từ nước ngoài.” Cùng với cái thói hay vu vạ, quí ông còn có cái tật (rất) lớn là luôn chối từ nhìn vào thực tại (bi thương) của những người dân ở vùng đất bất hạnh này.
Dưới miền xuôi, may thay, vẫn còn có những người Kinh công tâm và sáng suốt. Xin ông, đôi phút, lắng nghe những nhận định khách quan của nhà văn Nguyên Ngọc:
Từ sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:
* Xây dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng, tương xứng với vị trí chiến lược của vùng cao nguyên quan trọng này.
* Xây dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.
Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã:
– Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên. Theo kế hoạch ban đầu, dự kiến sẽ đưa lên Tây Nguyên 5 triệu dân. Kế hoạch này cũng đồng thời nhằm giải toar áp lực dân số cho hai vùng đồng bằng nói trên.
– Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn : trong 10 năm đầu là các Binh đoàn làm kinh tế, gồm 3 binh đoàn 331, 332, 333 bao trùm gần toàn bộ Tây Nguyên. Mười năm sau, quân đội giao lại cho dân sự, các binh đoàn làm kinh tế chuyển thành các Liên Hiệp Xí nghiệp Nông, Lâm, Công nghiệp (LHXNNLCN), cũng bao trùm gần hết Tây Nguyên. Sau 10 năm nữa, nhận thấy mô hình quản lý này không hiệu quả, đã giải tán các LHXNNLCN, tổ chức lại thành các nông trường, lâm trường thuộc tỉnh hoặc thuộc trung ương.
Toàn bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các binh đoàn làm kinh tế, các LHXNNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy…
Những việc làm của chúng ta ở Tây Nguyên từ sau 1975 như đã trình bày trên đã đưa đến những hệ quả:
- Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn… Đầu thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số. Đến năm 1975, tỷ lệ này là 50%. Hiện nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn…
- Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên. Từ sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng; bị bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu tan vỡ…
- Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Cho đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về nhiều mặt không thể lường.
- Người bản địa bị mất đất. Việc mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
- Văn hoá Tây Nguyên bị mai một. Việc mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá.
Đó là kết luận của “già làng” Nguyên Ngọc, hồi năm 2006. Hơn mười năm đã trôi qua, bây giờ chúng tôi không còn chỗ để mà “lang thang trên chính quê hương ngàn đời của mình” nữa. Đất bị cướp trắng cả rồi. Cho dù quả bom đỏ bauxite không nổ chăng nữa thì chúng tôi cũng chết dần, chết mòn, và sẽ chết hết (trong tương lai gần) nếu chế độ hiện hành không tàn lụi sớm.
Kính thưa ông
Tây Nguyên có được ngủ yên bao giờ mà nói “ngủ quên.” Tôi đoán chừng là ông đang ngủ gật nên có biết “trời trăng mây nước” gì đâu, chúng đưa cho cái gì thì cầm giấy đọc y chang như vậy thôi. Từ trên xuống dưới, toàn là một lũ dốt nhưng lại hay nói chữ!
K’ Tien
Lưu
Lưu
Chính xác và thấm thía quá anh K ‘Tiên: “Tây nguyên có được ngủ yên bao giờ đâu mà nói “ngủ quên”. Tôi đoán chừng ông đang ngủ gật nên có biết “trời trăng mây nước ” gì đâu, chúng đưa cho cái gì thì cầm giấy đọc y chang như vậy thôi. Từ trên xuống dưới, toàn một lũ ngu dốt nhưng lại hay nói chữ “. Chúc K’Tien viết được nhiều bài báo có giá trị như bài này. Thành thật cám ơn anh.