S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Xuân Nghe Nhạc Tết

10

Nếu thực sự có mùa xuân êm đềm, và tươi thắm tới cỡ đó mà bạn vẫn chưa hài lòng thì xin nghe thêm vài câu nhạc nữa – cũng  từ bản “Hoa Xuân,” của Phạm Duy :

Có một chàng thi sĩ miền quê
Hái bông hoa trao người xuân thì
Có một bầy em bé ngoài đê
Hát câu i tờ đón xuân về …

Tôi dám cá là  ngay cả vào Thời Trung Cổ, cũng không nơi nào có một mùa xuân an bình và tươi đẹp đến như vậy. Mà Phạm Duy đâu phải là người thuộc Thời Trung Cổ. Vậy chớ thằng chả kiếm ở đâu ra một mùa xuân (vào thời đại chúng ta) mà thái hòa và an lạc dữ vậy cà?

Thiệt nó đẹp như mơ vậy đó nha. Và sao tui nghi là ổng đã nằm mơ (thiệt) quá hà. Chớ giữa chúng ta, nhất là những kẻ sinh trưởng ở miền Nam Việt Nam, có mấy ai đã từng nhìn thấy cái đê. Bờ đê trần trụi vắng hoe cũng khỏi có luôn, nói chi đến “một bầy em bé … hát câu i tờ đón xuân về ” – vào một buổi chiều xuân nào đó, đã xa lắc xa lơ – trên bờ đê lộng gió!

Còn chuyện “có một chàng thi sĩ miền quê, ngắt bông hoa trao người xuân thì ”   (… ôi thôi) nhắc đến làm chi cho nó thêm buồn. Tìm đâu ra (nữa) một ông nội làm thơ dễ thương và hiền lành đến thế?

Tui nói vậy bạn dám cãi lắm nha. Bạn dám sẽ đưa Nguyễn Bính ra làm bia đỡ đạn, với lý do “ổng là thi sĩ miền quê cuối cùng” của thời đại chúng ta. Tệ hơn nữa, bạn còn dám mang những bài thơ lục bát (đã được “phóng ảnh treo tường” để bán) của Nguyễn Duy ra để hù tui nữa – không chừng?

Xin lỗi bạn chớ, cỡ Tú Xương đây mà cũng đã có lúc phải ứa lệ – rấm rứt khóc thầm (dám bằng tiếng Pháp) vì nạn đô thị hóa, đây nè :

Sông kia giờ đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò …

Sá gì Nguyễn Bính, nói chi tới cỡ Nguyễn Duy. Tóm lại, tui tin rằng Nguyễn Khuyến mới đích thực là thi sĩ miền quê cuối cùng của dân tộc Việt Nam :

Tháng Giêng hai mươi mốt chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không
Dở giời mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông

Chớ còn mấy trự làm thơ (lóc nhóc) sau này đều đã bị đô thị hóa, đã “phong sương mấy độ qua đường phố” hết trơn rồi – theo như cách nói của Sơn Nam. Và tôi ngại nhất là cái kiểu bụi đời (ướt át) của ông Thế Lữ :

Rũ áo phong sương trên gác trọ
Ngắm nhìn thiên hạ đón xuân sang

Cái gác trọ này – tôi bảo đảm – nằm ở Hà Thành, vào cuối thập niên ba mươi hay đầu bốn mươi gì đó. Thêm cái kiểu cách “rũ áo phong sương” đủ khiến chúng ta hình dung ra được cả đám Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Xuân Diệu, Huy Cận … đã sống cải lương chết mẹ đi rồi. Đâu còn “thi sĩ miền quê” nào nữa, mấy cha?
Đô thị hóa, tất nhiên, không phải chỉ xảy ra ở Hà Nội Ba Mươi Sáu Phố Phường. Không tin, cứ đọc Nguyễn Bính mà xem:

Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Đã mấy mùa xuân én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa mận nở
Riêng ta với người buồn lắm thay

Bạn thấy chưa : lại thêm hai ông nhô con bỏ nhà “dzô” Nam, thuê gác trọ, sống giữa Sài Thành Hoa Lệ. Mà đi giang hồ chút đỉnh vậy là phải chớ. Chính quê hương của Nguyễn Bính cũng đã nhiễm bụi thị thành từ lâu rồi, còn nấn ná ở đó làm chi cho mụ người ra :

Hoa chanh mọc ở vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hoa đồng cỏ nội bay đi ít nhiều …

Coi : nàng mới ra tỉnh về (có chút xíu hà) mà hoa đồng cỏ nội đã bay đi mất liền một mớ. Lỡ mà “ẻm” ghé chơi Hà Nội hay Hải Phòng ( chậm lắm ) ba đêm kể như rồi, còn gì là “người xuân thì” theo tiêu chuẩn “chân quê” nữa ?

Bạn hết cãi chưa ? Dù bạn đã tắt đài, tôi biết bạn vẫn còn ấm ức vì cái giọng điệu hoài cổ cực đoan và (hơi) quá khích của tui từ khi đặt bút xuống cho tới bây giờ – phải không nào?

Đừng có nghĩ bậy bạ như vậy, mang tội chết à nha, mấy cha! Coi : cuộc tình dấm dớ của một anh thi sĩ miền quê với một cô gái xuân thì – hay hình ảnh một bờ đê lộng gió, với bầy em bé tung tăng, hát câu i tờ, vào buổi chiều xuân có nắng vàng hanh nào đó – hoàn toàn và tuyệt đối có liên quan, dính dáng gì tới tui đâu. Cớ sao tui lại hoài cổ chớ ? Đây là chuyện riêng của … Bà Huyện Thanh Quan hay ( cùng lắm ) là của ông nội hoặc của ông già tôi thôi hà.

Mà hoài cổ, theo tôi, là thứ tình cảm hơi khó hiểu. Làm sao chúng ta có thể yêu mến hay ngưỡng mộ một thời đại mà mình tuyệt đối không có mắc mớ gì tới nó ? Hoài vọng hay hoài cảm, có lẽ, dễ hiểu và phổ biến hơn. Mọi người, khi bắt đầu luống tuổi, hẳn đều thấy tiếc nuối ít nhiều khoảng ấu thơ hay niên thiếu của mình – dù chúng ta sinh ra và trưởng thành ở bất cứ đâu.

Dù vậy, tôi vẫn lậy Trời cho bạn đừng xui tới cỡ là sinh ra ở miền Bắc – vào khoảng thập niên 1940, 50, hay 60 – và cứ phải sống mãi ở nơi đó cho đến bây giờ. Tuổi thơ và tuổi trẻ của bạn – tất nhiên – cũng đẹp, cũng thơ mộng vậy; tuy nhiên, tôi tin là nó sẽ đẹp hơn, mộng mơ hơn (chút đỉnh) nếu Bác và Đảng đừng xía vô cuộc đời bạn quá nhiều – như họ vẫn cứ thích làm như thế, từ nửa thế kỷ qua.

Còn nếu bạn sinh trưởng ở miền Nam thì đỡ mệt biết chừng nào mà nói. Sẽ không ai bắt bạn phải đeo khăn quàng đỏ và đi nhặt rác để hoàn thành kế hoạch nhỏ. Bạn cũng được miễn cái vụ “thay trời làm mưa” hay “nghiêng đồng cho nước chảy ra ngoài,” và bạn được tự do đi biểu tình  “đả đảo” hoặc chửi rủa bất cứ thằng cha hay con mẹ (cà chớn) nào mình không thích.

Trong một hoàn cảnh sống tương đối dễ thở như thế (và nếu bạn lại sống trong một thành phố ở cao nguyên ) thì hình ảnh “xuân về trên bãi cỏ non” (kể như) chỉ là chuyện nhỏ thôi. Điều đáng tiếc là những ngày tháng an lành, phẳng lặng đó không kéo dài lâu.

Đến khoảng cuối thập niên năm mươi, theo trí nhớ non nớt của tôi, trong không khí an bình của miền Nam thoang thoảng đã có mùi vị chiến tranh – qua những bản nhạc tâm lý chiến (thường được hát ở phòng trà và nghe ra hơi nhiều kịch tính ) của những ông nhạc sĩ quân đội, như bản “Phiên Gác Đêm Xuân” của Nguyễn Văn Đông chả hạn:

Đón giao thừa một phiên gác đêm
Chờ xuân đến súng xa vang rền
Xác hoa tàn rơi trên báng súng
Ngỡ rằng pháo tung bay
Nào ngờ đâu hoa lá rơi …

Trời đất, đơn vị bạn đụng địch, “súng xa vang rền” mà Nguyễn văn Đông vẫn đang mơ ngủ. Không hề nghe ổng ban lệnh ứng chiến hay kế hoạch cứu viện gì hết trơn hết trọi; đã vậy, sau khi tỉnh giấc, ổng bắt đầu … mơ mộng :

Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh
Và ước chiếc bánh ngày xuân
Cùng hương khói vương niềm thuơng…

 

Thiệt tình, ổng làm đảo ngược binh pháp hết trơn. Người ta thì cư an tư nguy còn ổng thì cư nguy tư an. Những sĩ quan cao cấp trong quân đôi miền Nam, như đại tá Nguyễn văn Đông, chắc có hơi nhiều ; bởi vậy, chỉ chừng mười năm sau, năm 1968 thì súng AK của Trung Cộng và Tiệp Khắc nổ thiệt và nổ khắp bốn mươi tỉnh lị và thành phố của miền Nam (kể luôn thủ đô Sài Gòn).

Cũng từ đây, chiến tranh lan vô thành phố. Nay, “plastic” đặt nổ “lầm” chỗ này ; mai, hỏa tiễn 122 ly rơi “lộn” vô chỗ khác. Và dù vậy, xã hội miền Nam vẫn cứ vui như tết – khi Tết đến.

Nếu so với miền Bắc – nơi mà vì “hoàn cảnh đất nước khó khăn” nên chỉ có quí vị ủy viên trung ương đảng CSVN uống rượu mừng xuân, thay cho cả nước – người dân miền Nam hoàn toàn bình đẳng trong chuyện đón xuân. Cứ nghe bản “Ly Rượu Mừng” của Phạm Đình Chương là đủ biết:

Ngày xuân nâng chén ta chúc nơi nơi
Mừng anh nông phu vui lúa thơm hơi
Người thương gia lợi tức
Người công nhân ấm no
Thoát ly đời gian lao nghèo khó
Á … a … a … a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á … a … a … a
Nhấp chén đầy vơi chúc người người vui
Á … a … a … a
Muôn lòng xao xuyến duyên đời
Rót thêm tràn đây chén quan san
Chúc người binh sĩ lên đường …

Coi : nẫy giờ mới chừng mười phút mà mỗi người đã uống đâu cỡ chục ly : ly tặng anh nông phu, ly chào anh công nhân, ly mừng ông thương gia, ly mừng người nghệ sĩ … Chưa đã, còn thêm vài “chén quan san” để “chúc người binh sĩ lên đường” nữa. Thiệt, vui còn hơn tết và cả nước (chắc chắn) đều “xỉn” thấy mẹ luôn!

Thỉnh thoảng mới có vài chiến sĩ say mê chiến đấu (hay đãng trí) đến độ quên luôn cả nhậu, và nhất định “Xuân Này Con Không Về” :

Con biết không về mẹ chờ em trông
Nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường
Không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ ơi con xuân này không về …

Những chàng “trai hùng chào xuân chiến trường” như thế, tiếc thay, không nhiều và cũng không mấy khi được giữ những chức vụ cao trong quân đội. Điều đáng tiếc hơn nữa là trong cuộc chiến tự vệ vừa qua, quân dân miền Nam đã áp dụng một chiến lược (rất) sai lầm. Thay vì “vui nhiệm vụ không quên xuân” thì họ đã làm ngược lại là “vui xuân nhưng không quên nhiệm vụ”. Nói cách khác “vui xuân” mới là chuyện chính, còn “nhiệm vụ” chỉ là chuyện phụ (và là chuyện nhỏ) thôi !

Cùng lúc – ở miền Bắc Việt Nam – khi Tết đến (sau khi nghe chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, tổng bí thư, thủ trưởng ban ngành, đơn vị … chúc tết xong ) là mọi người đâm bổ đi “tranh thủ làm việc gấp hai” để “thi đua lập chiến công dâng đảng.” ( Đ … mẹ chơi vậy ai chơi cho lại, mấy cha ! )

Cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt ra sao, vào mùa Xuân năm 1975, mọi người đều biết (và đều tiên đoán được). Từ đó, nhân dân hai miền đều chỉ còn được nghe một bản nhạc xuân duy nhất : “Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí Minh quang vinh, ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào. Sài Gòn ơi cả nước vẫy tay chào …”

Cũng như bạn, tôi chịu không nổi cái loại nhạc (thổ tả) này nên đã vẫy tay chào  “thành phố Hồ Chí Minh quang vinh” để … ra đi, và đi hơi sớm. Từ đó đến nay đã mấy chục năm qua. Biết bao nhiêu là nước sông, nước suối, nước mương, nước rãnh … đã ào ào chảy qua cầu (và qua cống) ?

Chiều nay, chiều cuối năm, ở một góc trời xa, tôi ngồi ghi lại những ý nghĩ lan man vụn vặt để gửi bạn đọc chơi – sau khi nghe hết một CD nhạc trong quán vắng, bắt đầu từ bản Hoa Xuân của Phạm Duy, đến bản cuối cùng (“Xuân Này Con Không Về”) của Trịnh Lâm Ngân.

Nhạc xuân gì mà nghe buồn quá má ơi!

Tưởng Năng Tiến (1990)

10 BÌNH LUẬN

  1. * Edward Mosberg – “To forget and forgive would mean you killed the victims a second time,” he said. “We cannot allow them to be killed again. We have no right to forgive. Only the dead can forgive.”

    Được may mắn thoát chết khỏi Cuộc Thảm Sát Hàng Loạt Người Do Thái Holocaust (bởi chế độ Đức Quốc Xã Hitler) , ông Edward Mosberg phát biểu:

    “Quên và tha thứ cho cái chế độ tội phạm đó có nghĩa là quý vị đã giết các nạn nhân Holocaust đã chết đó thêm lần thứ hai. Chúng ta không thể để cho họ bị giết thêm một lần nữa . Chúng ta không có cái Quyền tha thứ chế độ tội phạm đó . Chỉ có những người đã chết mới là những nguời sở hữu cái quyền quyết định đó mà thôi . “To forget and forgive would mean you killed the victims a second time,” he said. “We cannot allow them to be killed again. We have no right to forgive. Only the dead can forgive.”

    * Sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le Livre Noir Du Communisme [Sách Đen Về Chủ Nghĩa Cộng Sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999:

    “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của Cộng sản.”

  2. 2/2/2018 – Phil Gioia khi đó 21 tuổi, là trung úy Sư đoàn Dù 82, được gửi tới Việt Nam để tăng viện cho lực lượng thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến giành lại Huế.

    “….Chúng tôi khi đó vừa mới dọn sạch một trong những ngôi chùa lớn đó rồi di chuyển dọc theo các cánh đồng, nơi chúng tôi gặp một khu vực khá bằng phẳng dọc theo bờ bắc của con sông. Mùi tử khí đậm đặc.”
    “Một trung sĩ dưới quyền tôi, tên là Ruben Torrez, nói, ‘Ở đây có cảm giác rất chết chóc.’ Anh ấy thấy có một thứ nhô lên từ mặt đất. Ban đầu anh ấy nghĩ đó là rễ cây.”
    “Thế nhưng thứ đó đã bị mặt trời thiêu đốt mấy hôm, và đó là khuỷu tay của một xác chết, nhô lên từ lớp đất phủ sơ sài.”
    “Khi tới gần hơn, anh ấy nhận ra đó là gì, và gọi tôi tới gần. Tôi nhìn rồi nói, ‘chúng ta cần đào lên xem sao’ bởi chúng tôi nghĩ đó có thể là những người lính đối phương.”
    “Nếu kẻ thù chôn cất người của họ, thì trong các xác chết đó chúng ta có thể tìm được những thông tin đáng giá. Họ có thể mang theo nhật k‎ý, bản đồ chẳng hạn. Cho nên nếu đưa các xác chết đó lên và lục soát thì chúng tôi có thể tìm được những tin tức tình báo có giá trị.”
    “Nhưng lần này hóa ra không phải vậy. Đó là một người phụ nữ, và có rất nhiều xác người khác trong rãnh chôn này. Càng đào thêm, chúng tôi càng phát hiện ra thêm các xác chết.”
    Đó không phải là một mồ chôn bình thường. Các nạn nhân bị trói tay ra phía sau. Họ đã bị xử tử.
    “Họ đều bị giết chết tại hố này,” Phil Gioia nói.
    “Một số người bị bắn chết, một số không bị bắn. Tôi chỉ hy vọng là những người không bị bắn đã bất tỉnh trước khi bị hất đất lên người.”
    “Đó là những người đàn ông và những người đàn bà, chừng 100 người, và có cả trẻ nhỏ. Từ trẻ sơ sinh cho tới cho tới những đứa trẻ tôi đoán là khoảng 10-12 tuổi, cả con trai lẫn con gái. Thật tàn nhẫn.”
    Sau đó, Phil và những người lính của ông được cho biết về những xác chết mà họ tìm thấy.
    “Người phụ nữ với cánh tay nhô lên mà chúng tôi tìm thấy là một giáo viên. Như vậy là họ đã dồn những người mà họ cho là không được để cho sống, và đưa tới các chỗ khác nhau trong thành phố. Đây chỉ là một trong những nấm mồ tập thể được phát hiện ra, nhưng là nấm mồ đầu tiên,” Phil nói.
    ….
    Hơn 10 mồ chôn tập thể được phát hiện ở quanh Huế. Hầu hết các nạn nhân là người Việt, nhưng cũng có người châu Âu và người Mỹ.
    “Khi chỉ huy đại đội của tôi gọi radio về tổng hành dinh, họ đã không thể tin những gì được báo cáo. Khá nhanh sau đó, có rất nhiều người tới chỗ chúng tôi. Các sĩ quan cao cấp và một, hai vị tướng cùng trợ lý cũng tới,” Phil nói.
    “Chúng tôi phải đeo mặt nạ khí khi khai quật các tử thi. Cảnh tượng rất ghê rợn.”
    “Tôi chưa từng nhìn thấy điều gì như thế. Thành thật mà nói là cả những người lính của tôi cũng vậy. Và chúng tôi phải chuyển sang một khu vực khác, phải tẩy trùng vì toàn bộ quân phục, giày ủng, quần áo của chúng tôi, tất cả những gì trên người chúng tôi đều bị dính vương các mảnh xương thịt người chết.”
    “Chúng tôi là lính chuyên nghiệp dày dạn, không phải lính dự bị, vậy mà những người lính trẻ của tôi đã cảm thấy rất kinh sợ. Ai cũng kinh hoàng trước những gì nhìn thấy.”
    ….
    Tuy nhiên, tin tức về những vụ giết người ở Huế đã gây tác động rõ rệt.
    Khi quân Bắc Việt mở cuộc tấn công cuối cùng tiến tới thống nhất đất nước hồi 1975, hàng trăm ngàn dân thường ở miền Nam Việt Nam đã bỏ chạy. Dường như trong tâm trí nhiều người, câu chuyện về “những vụ thảm sát ở Huế” vẫn còn đậm dấu ấn.
    “Tôi không nghi ngờ gì rằng cơn hoảng loạn đã đeo bám họ, ám ảnh họ với những gì họ đã nhìn thấy, đã nghe được, và đọc được trên báo chí, truyền thông hồi 1968,” Phil Gioia nói.
    Tất nhiên, những vụ thảm sát ở Huế, dù chưa được phía Cộng sản thừa nhận, không phải là sự tàn bạo duy nhất của cuộc chiến, một cuộc chiến đã giết chết chừng 3 triệu người Việt Nam.

    *Phil Gioia phục vụ hai nhiệm kỳ tại Việt Nam và bị thương hai lần. Ông nay sống tại San Francisco, Mỹ. Cuộc phỏng vấn Phil Gioia bằng tiếng Anh mang tựa đề ‘Mass Graves in Hue, Vietnam’ đã được đăng tải trên kênh BBC World Service 10/2015.

  3. 2/9/2023- Khi xảy ra biến cố Tết Mậu Thân 68, nhà văn Phan Nhật Nam, đang chiến đấu ở Quảng Trị thì được trực thăng đưa về lại Huế để giành lại thành phố này

    Ông kể lại : “Xóm nhà tôi ở số 3 Bí đường Tô Hiến Thành là diễn trường của bị kịch Mậu Thân ở Huế. Từ nhà tôi xuống trường Gia Hội (địa điểm phát hiện nhiều hố chôn người) nơi tôi học vỡ lòng không xa” .

    Ông kể lại rằng chú ruột của ông tên là Phan Văn Cần, vốn chỉ là ‘một ông cảnh sát đứng chỉ đường’ và người hàng xóm sát vách tên là Phan Bản Soạn, vốn chỉ là ông thợ may, đều bị quân Cộng sản lùa đi chôn sống.

    “Em ruột tôi là người đi đào những cái hố đó mà không biết là đào để sẽ chôn người. Từ trường Gia Hội, tiếng la hét của những người bị chôn sống vang dội đến xóm Gia Hội,” ông kể lại những gì mà ông đã nghe gia đình ông kể lại sau này.

    “Tôi vẫn canh cánh trong lòng tất cả những bi thảm đó với câu hỏi tại sao con người ta có thể ác với nhau như vậy? Tại sao người Cộng sản có thể tàn nhẫn với chính đồng bào của mình như vậy, những đồng bào vô tội,” ông giãi bày.

    Ông lên án việc CS trong nước ca ngợi những sự kiện ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân và nói rằng nếu ông có dịp gặp được các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì ông sẽ hỏi thẳng: “Tại sao các ông có thể giết người một cách tỉnh táo như vậy?”

    Nhận định về thảm sát Mậu Thân ở Huế, ông Phan Nhật Nam cho rằng đó ‘không chỉ là tội ác đối với Huế, đối với miền Nam mà là tội ác đối với cả dân tộc Việt Nam’. Do đó, ông cho rằng nếu CS chân thành muốn hòa giải thì phải thừa nhận tội ác này và ‘phải có một lần đại giải oan cho các nạn nhân’.

  4. *Thư Xuân Ba Viết Cho Con
    Nguyên Thảo

    Lời đầu năm ba viết cho con
    Chuyện quê hương khói lửa rã mòn…..
    Ba vẫn miệt mài thân chinh chiến
    Nên biết rằng con chẳng được vui
    Ngày đầu năm sẽ vắng tiếng cười

    Lời đầu năm tha thiết bao la
    Cho con yêu để gọi là quà
    Nơi chiến trường quà xuân đâu có
    Chỉ còn đây những vỏ đạn đồng
    Với loài hoa hư khôn
    …..

    *Đan Áo Mùa Xuân
    Phạm Thế Mỹ

    Cứ mỗi lần hoa mai vàng trước ngõ
    Là thôi em mong nhớ xuân này chàng có về
    Hỏi hoa hoa chẳng nói,
    Hỏi mây mây lặng đứng
    Hỏi gió gió ngập ngừng,
    Hỏi nắng nắng ngại ngùng
    ….

    Nhớ xuân sang năm nào,
    Bên bếp lửa vui, ngồi đan áo cho anh
    Đôi mắt anh dịu buồn, nói anh sẽ về
    Khi máu xương ngừng rơi

    *Tôi chưa có mùa Xuân
    Châu Kỳ

    Đợi hai ba năm nữa, quê mình thôi khói lửa
    Mời xuân đến với tôi, giờ này còn nổi trôi,
    Riêng tôi xin từ chối,

    Hai mươi mấy xuân rồi, tôi vẫn đi hoài,
    Nghe như vắng tiếng cười, chạnh vì non nước tôi,
    đang còn lửa khói, ôi xót xa đầy vơi.

    *Đồn vắng chiều xuân
    Trần Thiện Thanh

    Đồn anh đóng ven rừng mai
    Nếu mai không nở, anh đâu biết xuân về hay chưa?
    Chờ em một cánh thư xuân, nhớ thương gom đầy
    Cho chiến sĩ vui miền xa xôi…

    Hẹn em khi khắp nơi yên vui
    Mùa xuân ngày đó riêng đôi mình

    *Phiên Gác Đêm Xuân
    Nguyễn Văn Đông

    Đón Giao Thừa một phiên gác đêm
    Chào Xuân đến súng xa vang rền
    Xác hoa tàn rơi trên báng súng
    Ngỡ rằng pháo tung bay, ngờ đâu hoa lá rơi

    Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
    Mơ rằng đây mái nhà tranh
    Mà ước chiếc bánh ngày xuân
    Cùng hương khói vương niềm thuơng

    v.v…

    • Một sáng tác rất hay của nhạc sĩ, đại tá Nguyễn Văn Động dạt dào tình yêu đất nước, tình thương gia đình :

      Lá Thư Người Lính Chiến
      Nguyễn Văn Đông

      Mẹ ơi lời tâm thư gói trọn tình con viết từ chiến trường
      Mẹ ơi sầu lo chi tóc già bạc phơ xót xa lòng con
      Mẹ ơi đàn em thơ vắng người anh trai có còn khóc hoài
      Mẹ ơi vợ hiền con có còn chăm lo luống khoai tháng ngày

      Đời lính thân con nề chi
      Xót mẹ già chiều quê gió Đông sang
      Và nhớ thương thương người em
      Cưới nhau về ngày vui khóc biệt ly

      Mẹ ơi cầu xin cho xóm làng quê hương xóa mờ chiến trường
      Đồng bào ta cùng thương nhau xóa hận thù đi lấp đi đường ranh giới
      Mẹ ơi và con trai của mẹ ngày mai sẽ về sẽ về
      Mẹ ơi mẹ hiền ơi chớ buồn vì con nước non chưa tròn

  5. “Mùa Xuân Của Mẹ ”
    Trịnh Lâm Ngân

    Mẹ ơi hoa cúc hoa mai nở rồi
    Giờ đây đời con đang còn lênh đênh
    Đèo cao gió lộng ngày đêm bạt ngàn
    Áo trận sờn vai bạc màu
    Nhìn xuân về lòng buồn mênh mang

    ….

    Khi xưa, những ngày binh lửa chưa sang
    Bếp hồng quây quần bên nhau
    Nghe Mẹ kể chuyện đời xưa

    Mẹ ơi con hứa con sẽ trở về
    Dù cho, dù cho xuân đã đi qua
    Dù cho én từng bầy bay về ngàn
    Dẫu gì rồi con cũng về
    Chỉ bên Mẹ là mùa xuân thôi

  6. Nhạc nay…nhạt?

    He he he…Nhạc Xuân thời đại Hồ Chí Minh nghe thì nổ như …pháo, nhưng không hề có một chút cảm xúc nào của Xuân.

    “Tết Tết Tết Tết Tết Đến Rồi ….”

    Nghe cứ như bị choọc vào…nách.

    Tội nghiệp người nghe!

    Tội nghiệp…Tết!

    Tội nghiệp âm nhạc!

    • Chưa thấy bản nhạc Tết nào vô duyên như bản nhạc này. Mấy mươi năm rồi mà không có bản nhạc Tết nào ra hồn.

  7. Chứng từ của ông Phan Văn Tuấn, kể lại năm 2008: Ông Phan Văn Tuấn, hồi 1968, mới có 16 tuổi, học sinh lớp Đệ tam trường trung học tư thục Nguyễn Du. Sau đó Ông là sĩ quan Quân lực VNCH và hiện sống tại Úc.
    Xin nghe ông tâm sự:

    Vào dịp tết Mậu Thân 68, chúng tôi được ăn Tết vào ngày mồng một, nhưng đến đêm mồng hai, súng bắt đầu nổ tại khu chợ Đông Ba vọng qua chợ Xép, nơi tôi đang ở tại ngã tư đường Nguyễn Thành/Mai thúc Loan.

    Lúc đầu, chúng tôi tưởng là pháo nổ khai xuân vì có 48 giờ hưu chiến được thỏa thuận giữa 2 Miền và qúa lắm là tiếng súng hoà lẫn tiếng pháo mừng Xuân của các anh lính VNCH. Nhưng thưa không. Người ta bắt đầu bỏ chạy từ phía chợ Đông Ba. Lúc nầy chúng tôi được biết là Việt Cộng đã về phiá bên kia là chợ Đông Ba. Chúng tôi bắt đầu hoảng sợ. Tất cả đều chui vào những cái sạp hoặc divan để núp.

    Đến sáng mồng 2, Việt cộng đầy đường. Chúng mặc đồ đen ngắn tay, quần sọt, tay cầm AK, đi dép râu và đội nón tai bèo. Trong đám lộn xộn đó cũng có những tên mặc đồ bộ đội. Tôi bắt đầu phát hiện ra là có những người tôi quen: bạn tôi, thầy tôi. Người đầu tiên tôi thấy là ông Tôn Thất Dương Tiềm, ông dạy môn Việt văn lớp Đệ tam trường tôi. Hằng ngày ông thường dạy chúng tôi tình yêu thương đồng bào, yêu quê hương, yêu Tổ quốc. Nhưng Trời ơi! Quý vị có biết không, chính ông Tiềm ngày hôm nay lại là người dạy tôi sự tàn ác của Việt cộng qua chính con người ông. Ông vác súng AK, mặc quần xanh bộ đội chính quy và áo chemise trắng ngắn tay. Tôi thấy ông đang chỉ huy những người mặc đồng phục như ông, tay cầm AK. Chính những người nầy lại chỉ huy những tên mặc đồ đen là du kích. Trong đám đó, tôi còn thấy anh Hoàng Văn Giàu, sinh viên Đại học Huế.

    Tôi đã chứng kiến sự tàn sát của ông thầy tôi, ông Tiềm tại ngã tư Nguyễn Thành/Mai Thúc Loan vào sáng ngày mồng 2 tết lúc 12 giờ trưa. Những tên du kích bắt 5 người không rõ từ đâu, tay họ bị trói gập ra đằng sau, mặc thường phục và một số khác còn mặc đồ ngủ dẫn ra ngã tư nầy. Lúc nầy cũng có tên Việt cộng nằm vùng Hoàng Văn Giàu loong toong chạy theo.

    Chúng bắt các nạn nhân sắp hàng, xoay lưng vô tường thành. Tôi thấy rõ ông Tiềm, Giáo sư của tôi, chỉ huy vụ nầy. Ông ra lệnh cho tên bộ đội chính quy nói giọng Bắc, tên nầy truyền lệnh lại cho tên du kích giương súng AK lên bắn. Trong số nạn nhân trên có ông Quế già Cảnh sát đã về hưu và những người khác chỉ là dân sự mà tôi biết mặt từ trước. Tuyệt nhiên chưa có một công chức hay quân nhân nào tại chức, tại ngũ. Sau đó, thân nhân nạn nhân chạy đến, chồm tới khóc lóc thảm thiết, nhưng những tên du kích bảo họ: Cút đi! cút đi!

    Tình trạng thây người với máu, ruồi nhặng dưới ánh nắng kéo dài vài hôm sau, thân nhân mới len lén đem xác về chôn cất. Đó là lần bắn đầu tiên và người đầu tiên tôi thấy ra lệnh bắn đồng bào tôi, chính là Giáo sư khả ái trước đây của tôi, ông Tôn Thất Dương Tiềm !

    • (tt)….Chúng tôi chạy về hướng Mang Cá. Thoát được xóm thứ nhất, xóm thứ hai, nhưng đến xóm thứ ba thì bị những tên du kích VC chận đường. Chúng bắt tôi đi khiêng đồ gồm quân dụng, thực phẩm. Dẫn đi được một hồi, tôi thấy chúng tập trung được 5 người cùng xóm với tôi và đưa đến chùa Diệu Đế. Tại đây, lúc đó có độ mười mấy người trạc tuổi tôi. Chúng sai chúng tôi đi khiêng gạo cơm, đạn dược. Sau đó, chúng đưa về phiá Gia Hội sống chung quanh các nhà cư dân. Chúng bắt chúng tôi khuân vác trong mấy ngày liền.

      Những ngày hôm sau, từ phía chợ Đông Ba, chúng tôi thấy máy bay bắn xuống rất rát. Tôi đoán chắc là lính VNCH bắt đầu phản công. Ngay tối hôm đó, thay vì đi dân công như thường lệ, chúng phát cho chúng tôi cuốc để đào hố. Thoạt tiên tôi nghĩ hố nầy dùng để núp bom đạn từ máy bay bắn xuống. Mười mấy người chúng tôi khi màn đêm buông xuống là đi đào hố, bề sâu 1 thước, bề rộng khoảng 1 sải tay -1 thước 60 phân. Mỗi thằng đào một hố. Xong hố nầy, đào hố khác như đào tuyến công sự phòng thủ vậy.

      Đến 3 giờ sáng, tôi thấy một đoàn người từ xa xa đi về phiá chúng tôi. Khi đến gần, thấy họ bị trói cập cánh. Mỗi toán khoảng 15 người bị cột chùm lại với nhau bằng dây điện thoại. Mỗi cái hố chúng tôi đào bằng cỡ đó. Số nạn nhân nầy có kẻ mặc thường phục, đồ ngủ, đi dép hoặc chân không. Chúng bắt họ quay lưng vào miệng hố. Một tên Việt cộng mặc áo trắng, quần xanh bộ đội, đội nón cối đọc bản án “Tội ác với Nhân dân, với Cách mạng”. Vừa đọc xong bản án, tên du kích mặc quần sà loỏng đen dùng AK chỉ bắn một người thôi. Nạn nhân nầy rơi xuống hố, những người còn lại bị dính chùm, cũng bị lật ngữa và té xuống hố. Họ lăn lộn bên dưới. Tên VC chính quy miền Bắc bảo chúng tôi: Lấp lẹ, lấp lẹ! Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi khóc thương cho đồng bào xấu số của tôi và trả lời: Không lấp! Nó dùng báng súng AK dộng vào lưng tôi và dùng lưỡi lê đâm nhẹ vào bả sườn tôi.

      Tất cả chúng tôi đều khóc, chúng đánh tiếp, buộc lòng chúng tôi phải lấp. Trời ơi! Phật ơi! Đồng bào tôi dưới hố đang ngước lên nhìn chúng tôi. Trời ơi! Không lấp thì chúng nó đánh, mà lấp thì đồng bào tôi chết. Có vài người ngẩng đầu lên vì bản năng sinh tồn, chúng dùng báng súng đánh vào đầu cho chết luôn. Lạy Trời! Lạy Phật! chưa có thằng nào tàn ác như vậy. (vừa kể, vừa khóc).

      Đến giờ phút nầy, tháng 2 năm 2008, tôi vẫn bị cơn ác mộng, vẫn nằm ngủ thấy ánh mắt của đồng bào tôi từ dưới hố đang nhìn lên tôi, miệng đầy đất. Họ nằm ngữa, nằm nghiêng trong cơn tuyệt vọng!

      Từ những đợt sau, chúng không bắn vì xẹt lửa ban đêm, sợ lộ mục tiêu. Những lần nầy, sau khi tên mặc áo trắng cụt tay đọc bản án, thì tên du kích dùng bảng súng AK đánh vào đầu người thứ nhất làm té ngữa xuống hố; vì dính dây chùm, những người kia cũng bị ngã theo. Ai ngoi đầu lên, chúng dùng báng súng hay cuốc nện vào đầu cho chết luôn, sau đó bắt chúng tôi lấp. Những cái sọ nào sau nầy đào lên mà thấy vỡ là nằm trong trường hợp đó khiến tôi chợt nghĩ là 5 người bị bắn đợt đầu tại chợ Xép là chết sướng lắm, không qúa thảm thương như những lần sau đâu!

      Tôi thấy kiểu Hitler giết người Do Thái chỉ cần xả hơi ngạt là chết liền, chết êm ả hơn là chết chôn bị nhộp và bị đánh vào đầu! Suốt mười mấy ngày đêm, chúng bắt được bao nhiêu thì chúng tôi phải đào hố và chôn sống bấy nhiêu.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên