Ngô Đình Diệm và vai trò lịch sử của CIA tại Việt Nam [1]

16
Thủ tướng Ngô Đình Diệm trong lễ bàn giao 1954. Nguồn: alphahistory.com

Khi đọc một số tài liệu của CIA liên quan đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, có thể nói tôi đã mất một sự tin tưởng và sự thần phục người Mỹ vốn được rất nhiều người Việt Nam thời kỳ thập niên 1950-1960 tin tưởng.

Khi đó, tôi cũng như nhiều người trẻ khác tin tưởng rằng người Mỹ đến để giúp Việt Nam chống Cộng, viện trợ rộng rãi và hào hiệp với một tinh thần dân chủ, hợp tác.

Nhưng  thực ra đó chỉ là một cuộc hôn nhân gượng ép với nhiều bất đồng, nghi kỵ lẫn nhau để đi đến chỗ đổ vỡ mà người ta quen gọi là “thay ngựa giữa dòng”. Người Mỹ và chính sách của chính quyền Mỹ là hai thực tế khác biệt. Người Mỹ đến Viện Nam để áp đặt hơn là hợp tác. Người Mỹ có thể hành xử dân chủ trong nước họ, nhưng họ làm trái ngược khi sang Việt Nam. Chính sách của họ thay đổi từng thời kỳ mà không lý đến quyền lợi và nhất là chủ quyền của Việt Nam.

Mâu thuẫn sâu xa giữa ông Diệm và người Mỹ là chủ quyền của Việt Nam.

Bằng mọi giá, ông Diệm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. Vì thế, trong một cuộc gặp gỡ sau cùng với Cabot Lodge, ông Diệm đã cay đắng nói huỵch tẹt ra:

“Je ne suis pas une marionnette,” Diem said. “Je pas serveur. I am  not a puppet. I will not serve. Diem would reserve these words for one of his last meeting with Lodge. In this first meeting, he indicated his disapproval with facial expression.”

(Tôi không phải là bù nhìn. Không phải là đầy tớ.)

Patrick J. Sloyan, The Politics of Deception: JFK’s Secret Decisions on Vietnam, Civil Rights, and Cuba, 2015, trang 189

Ông Diệm luôn luôn chỉ là Diệm như Seth Jacob viết:

“Diem never pretend to be anything other than what he was and he never changed.”

Seth Jacob, America’s Miracle man in Viet Nam, 2004, trang 4

Vì thế, Diệm không dễ dàng quỵ lụy để tìm một “ân huệ”, ông không vun trồng và gầy dựng một lực lượng hậu thuẫn chính trị ở Mỹ, như nhiều chế độ ở Á Châu cũng cần sự ủng hộ của Mỹ như người Trung Hoa  Quốc gia như trùm mật vụ William Colby  viết,

“In contrast to some other regimes dependent on American support in Asia, most notably the Chinese Nationalists, Diem made little effort to cultivate and activate a supporting political force in the United States.”

William Colby with James Mc Cargar. Lost Victory: A Firsthand Account of America’s Sixteen-Year Involvement in Vietnam, 1989, trang 111

Cho nên, sự mâu thuẫn giữa người Mỹ và ông Diệm có phải là sự khác biệt về hai nền tảng văn hóa Á Đông và Âu Mỹ. Lãnh đạo Trung Hoa Quốc gia ứng xử với Mỹ khác cách của ông Diệm như Colby nhận xét.

Ông Diệm là một nhà nho cuối cùng trong guồng máy chính trị Việt Nam có lòng tự trọng. Không mềm dẻo, không có sự nhân nhượng trước mối lợi. Nói cho cùng, ông không sống hèn. Ông chết vì chính cái giá trị đạo đức của mình. Cây trúc phải chăng là biểu tưởng của người quân tử mà nhiều người đã quên? Ông Diệm là như thế trước một áp lực của Mỹ với chủ trương thực dụng?

Tìm hiểu vai trò của CIA dựa trên tài liệu sẽ cho thấy một phần sự thật.

Một số tác giả Mỹ sau này, vì có độ lùi thời gian cần thiết, viết một cách tương đối khách quan hơn, như Edward Miller với cuốn Misalliance. Ngô Dinh Diem, the United States and the fate of South Viet Nam. 2013. Tác giả chỉ nhắc đến tên tổng thống Ngô Đình Diệm và nước Mỹ nói chung, bất kể đời Tổng thống nào của Mỹ. Đồng thời chứng minh được rằng ông Diệm có đường lối, chính sách và nhất là cái quyết tâm của một người lãnh đạo, sống chết với đất nước mình, muốn làm một cuộc cách mạng xã hội mà không được người Mỹ chia xẻ, để đi đến chỗ tan rã. Từ sự tan rã đó tạo ra số phận cay nghiệt cho sự đổ vỡ miền Nam.

Không có bất cứ một tổng thống hay người Mỹ nào có đủ cái quyết tâm với mảnh đất quê hương mình như những gắn bó của ông Diệm với đất nước của ông.

Ông Diệm hơn bất cứ một nhà lãnh đạo chiến lược nào của Mỹ. Ông có một niềm tin xác tín, một hiểu biết sâu xa về cộng sản, một đạo đức chính trị và một lòng yêu đất nước mình mà người Mỹ không có được. Miller đã dành hẳn một chương I viết về ông Diệm, từ trang 19-53: Man of Faith. Người của niềm tin. Chính những yếu tố nhân văn ấy, những yếu tố chủ quan, những yếu tố tinh thần ấy nếu không có sự có mặt của người Mỹ, ông sẽ là người đưa đất nước đến một tương lai xán lạn mà người Mỹ không thể nào cung cấp cho Việt Nam được.

Người Mỹ có thể  là một đại gia giàu có, có nhiều chính sách, nhiều giải pháp, nhiều súng đạn. Nhưng không mấy người Mỹ nào hiểu Việt Nam.

Rõ ràng họ đã thất bại trước bọn cộng sản.

Ông Diệm chỉ có một con đường và không có chọn lựa nào khác. Đó là con đường thứ ba, con đường Dân tộc: chống cả thực dân Pháp và cộng sản và độc lập với người Mỹ.

Hiểu rõ được cái chân lý đơn giản ấy thì mọi chuyện được sáng tỏ và ra khỏi cơn mê hoặc tin tưởng hay chống đối Mỹ là kẻ phản bội.

“Trong bài diễn văn đầu tiên của mình sau khi trở về Sài Gòn, Ngô Đình Diệm tái khẳng định rằng mục tiêu của ông là đề xướng thay đổi cách mạng ở Việt Nam

Trước một thời cơ khẩn cấp, tôi sẽ hành động quyết-liệt. Tôi sẽ cương-quyết vạch ra một đường lối cứu-quốc. Một cuộc cách-mệnh toàn diện sẽ được thực hiện trong hết mọi ngành tổ-chức và sinh-hoạt quốc-gia.”

Edward Miller “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diệm, 1945–54“, Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004, pp 433–458. Hoài Phi & Vy Huyền biên dịch

Nhưng quyết tâm và giấc mơ của ông Diệm khi về nước nào được người Mỹ đếm xỉa đến?

Cạnh đó còn có một số sách khác như  The Lost Mandate Of Heaven của Geoffrey Shaw với; The Lost Revolution: The U.S. In Vietnam, 1946-1966 của Robert Shaplen; The Politics of Deception: JFK’s Secret Decisions on Vietnam, Civil Rights, and Cuba của Patrick J. Sloyan.

Người Mỹ tức giận trước tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược giữa hai bên là một thực tế chính trị nổi bật thời Đệ I cộng Hòa. Sự cứng đầu của một lãnh tụ nước nhược tiểu và sự áp đảo của một siêu cường qua các cố vấn, qua CIA là một cuộc đối đầu không khoan nhượng.

Và như đòn mà CIA quen dùng là bôi nhọ ông Diệm. Dù đối đầu với Mỹ, cộng sản vẫn tuyên truyền ông chỉ là bù nhìn của Mỹ hay gọi chính quyền Đệ nhất Cộng hòa là chế độ Mỹ-Diệm.

Ông Diệm vừa là nạn nhân của đồng minh Mỹ đồng thời của Cộng sản Hà Nội. Miller đặt câu hỏi

“If  he was a puppet, why did the United States want him removed? And by subsequent releases of documentary evidence showing that Diem disregarded U.S advice much more often than he followed it.”

Edward Miller, Misalliance. Ngô Dinh Diem, the United States and the fate of South Viet Nam, trang14

Cũng đúng như nhận xét của Stanley Karnow. Roger Hilsman tự cho cái quyền yêu cầu loại bỏ cố vấn Ngô Đình Nhu như một giải pháp “ân huệ “với chính quyền Ngô Đinh Diệm. Không ai hỏi ai cho Hilsman cái quyền đó? Ông Diệm không phải bù nhìn của Mỹ. Thật vô lý đến ngạc nhiên! Và trong trường họp điều đó không được Diệm chấp nhận thì chính bản thân ông Diệm cũng bị loại bỏ.  Karnow viết:

“Hilsman proposed that Diem be “given the chance” to jettison his brother. If  Diem “remains obdurate and refuses,” Hilsman continued, “we must face the possibility that Diem himself cannot be preserved.””

Stanley Karnow, Vietnam. A History (revised and updated). Penguin Books, 1984, trang 303.

DEPTEL243 hay Điện tín 243 do nhân viên bộ Ngoại giao gởi Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Henry Cabot Lodge, Jr ngày August 24, 1963. Nội dung điện tín 243 do những nhân viên của Bộ Ngoại giao có mặt ở Washington,  W. Averell Harriman, Roger Hilsman và Michael Forrestal, soạn thảo vào một chiều thứ Bẩy khi Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và Giám đốc CIA John McCone đang đi nghỉ hè. Tổng thống cũng đang nghỉ mát ở Hyannis Port. Kennedy nói với Forrestal đưa bản thảo cho một viên chức cao cấp (hơn) phê chuẩn.  Harriman và Hilsman chạy đi gặp thứ trưởng Ngoại giao George Ball; ông này không chấp thuận cho đến khi cả ba điện thoại, từ tư gia của Ball,  cho Ngoại trưởng Dean Rusk, Ông Rusk nói, “Well, go ahead. If the president understood the implications, [I] would give a green light.” (OK, cứ làm. Nếu tổng thống đã hiểu hệ quả, (tôi) cũng đồng ý bật đèn xanh.”

Như vậy, Karnow đã trích dẫn Điện tín 243 ra khỏi ngữ cảnh và trích dẫn sai khiến người đọc có thể hiểu lầm (như tác giả NVL tưởng rằng “Hilsman tự cho cái quyền yêu cầu loại bỏ cố vấn Ngô Đình Nhu như một giải pháp “ân huệ “với chính quyền Ngô Đình Diệm.”

Cuối trang 2 của Điện tín 243 ghi rõ,

“(1) Chúng ta phải làm áp lực với Chính phủ Việt Nam về những điểm này:
(a) Chính phủ Mỹ không thể chấp nhận hành động đàn áp Phật Giáo của Nhu và những cộng tác viên của ông ta dưới bình phong thiết quân luật.
(b) Phải có hành động nhanh chóng giải quyết tình hình, kể cả bãi bỏ luật 10[/59], thả các sư sãi bị bắt, v.v..

(2) … chính phủ Mỹ không thể  tiếp tục viện trợ Chính phủ Việt Nam về quân sự và kinh tế trừ khi những bước kể trên được thực hiện ngay lập tức và chúng ta nhận thấy điều này cần có sự loại bỏ Ngô Đình Nhu ra khỏi hiện trường. Chúng ta muốn để cho Diệm có cơ hội hợp lý để loại Nhu, nhưng nếu ông ấy vẫn bướng bỉnh, thì chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận hệ quả rõ ràng là chúng ta không thể tiếp tục ủng hộ  Diệm.”

Điện tín 243 của Bộ ngoại giao Mỹ gởi tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon ngày 24/8/1963

Lưu ý, trong đoạn văn này Bộ Ngoại giao Mỹ không dùng chữ “obdurate and refuses” như Karnow viếtchỉ có chữ “obdurate” (ngoan cố, bướng bỉnh) và Điện tín 243 cũng không có đoạn “we must face the possibility that Diem himself cannot be preserved” mà nguyên văn là “…we are prepared to accept the obvious implication that we can no longer support Diem.”

Dưới đây là Điện tín 243 của Bộ ngoại giao Mỹ gởi tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon ngày 24/8/1963

Nhìn lại ngày nay thì đấy là sự một xâm phạm chủ quyền quốc gia một cách thậm vô lý và độc đoán. Chính quyền Mỹ đã khuyến khích việc lật đổ một đồng minh chỉ vì sự bất đồng ý kiến được coi như thiếu sự hợp tác của ông Diệm. Và dựa trên đó, người Mỹ coi như có cái quyền được chi phối một chính phủ độc lập chỉ vì chính phủ ấy không đáp ứng được những đòi hỏi của chính phủ Mỹ. Một điều có thể không bao giờ có thể xảy  ra trên nước Mỹ thì đã xảy một cách rất tự nhiên ở Việt Nam.

Cho nên có thể khẳng định, ông Diệm bị lật đổ chỉ vì đã không làm theo những quyết định của người Mỹ. Tất cả những lý do khác chỉ là cái cớ, cái phụ thuộc hay do tuyên truyền mà sau này đọc tài liệu CIA sẽ thấy rõ. Những khẩu hiệu như độc tài, gia đình trị, kỳ thị Phật giáo v.v. và v.v. chỉ là lá bài, sản phẩm được tuyên truyền mà phần sự thật  nhỏ nhoi không đáng kể.

Người Mỹ không chấp nhận một tiến trình tiệm tiến cải thiện, chấp nhận một thực tế Việt Nam vừa mới độc lập. Đối với ông Diệm, báo chí, dư luận như thế đã là một phần tự do. Nhưng tiêu chuẩn người Mỹ về tự do cao hơn, theo một “American-style democracy”, mà thực tế là Việt Nam đang ở trong thời chiến! Chính phủ Việt Nam không thể tiến hành thực hiện dân chủ cùng lúc tiến hành cuộc chiến tranh một mất một còn với cộng sản. Và vì thế, chính phủ ông Diệm bị coi là độc tài.

Nhưng có bao nhiêu mức độ độc tài, mẫu độc tài? Độc tài ở những nước hậu thuộc địa; Độc tài ở những nước chậm tiến; độc tài theo kiểu Hitler. độc tài theo kiểu Cộng sản. Khi người Mỹ nhúng tay vào việc lật đổ Sukarno, năm 1965 và dựng lên chính quyền của Suharto thì đó là độc tài hay dân chủ? Khi Mỹ trực tiếp nhúng tay vào việc lật đổ ông Ngô Đình Diệm thì đó là độc tài hay dân chủ kiểu Mỹ?

Hình như hiếm có tài liệu nào nói đến tính chính danh, tính hợp pháp của việc lật đổ Ngô Đình Diệm? Khi người Mỹ như Nixon nói No more Vietnams thì điều đó ám chỉ lỗi lầm về phía ông Diệm hay về phía người Mỹ? Nixon còn tỏ ra đi xa hơn khi cho rằng Chiến tranh ở Việt Nam là vô đạo đức, The war in Vietnam is immoral.

Khi một người Mỹ có con em trong danh sách bức tường tưởng niệm hơn 50.000 người Mỹ chết, than: “Here the price we paid!” Thì đó có phải là cái giá phải trả của sai lầm? Bởi vì nếu là chính nghĩa thì làm gì có giá.

Nghĩa trang chiến tranh Canada Bény-sur-Mer (Pháp): Cái giá người Canada và Anh đã gục ngã ở bờ biển Normandy và Mặt trận Caen, Bãi Juno trong Đệ nhị Thế chiến. Một phần nhỏ của cái giá phải trả để bảo vệ hòa bình thế giới. Nguồn: Burtonpe at English Wikipedia

Dư luận nói chung cho thấy Việt Nam chỉ là con bài bù nhìn sau cái chết của ông Diệm, mặc các áo khác màu cho một tranh chấp mà chúng ta chỉ là kẻ thừa hành hay nạn nhân. Sự đến và đi, sự tiếp tục hay ngưng lại, sự củng cố gia tăng cường độ chiến tranh hay sự cắt giảm quân số hay trang thiết bị – nói thẳng như việc Việt Nam hóa chiến tranh – chỉ là sự đáp ứng tùy tiện cho một lá bài mà ngoài thẩm quyền trách nhiệm của chính người Việt.

Cách nói đúng nhất của người Mỹ như Nixon viết trong nhan đề cuốn sách: No more Vietnams. Chữ Vietnam nay có thêm chữ S. Chúng ta chết vì chữ S này. Cái nhìn của Nixon về cuộc chiến rất thực tế, rất Mỹ. ông viết:

“Our critical error was to ignore one of the iron laws of war: Never go in without knowing how you are going to get out.”

Richard Nixon, No more Vietnams. 1985. trang 46

Tất cả đều đúng. Người Mỹ đến rồi đi, vào rồi ra tùy tiện. Chính phủ Việt Nam chưa bao giờ chính thức mời họ đến. Mà đi hay đến là tùy họ. Nhưng người ở lại là kẻ nhận lãnh hậu quả!

Đã có khoảng 1300 cuốn sách của người ngoại quốc viết về Việt Nam. Nhưng người trong cuộc thì như kẻ ngoài cuộc, chẳng có nhiều dịp và cơ hội để viết về chính mình.

Câu chuyện mở đầu

Người ta  đọc thấy trên bức tường bằng đá cẩm thạch tại Tổng Hành Dinh của CIA ở Langley, Virginia câu sau đây:

Trên tường tại Tổng hành dinh của CIA.

“AND YE SHALL KNOWN THE TRUTH AND
THE TRUTH SHALL MAKE YOU FREE.” – JOHN VIII-XXXII

Victor Marchetti và John D. Marks, The CIA and the cult of Intelligence. 1974)

Câu trong thánh kinh nêu trên trở thành nguyên tắc lý tưởng cho bất cứ ai làm trong ngành tình báo của Mỹ như cơ quan tình báo CIA. Vì thế, khi được thu nhận, các nhân viên tình báo của Mỹ buộc phải ký một thỏa thuận buộc không được tiết lộ tất cả các nguồn tin thu thập được của ngành tình báo. Tất cả trở thành tài sản trí tuệ của CIA mà không ai được quyền xử dụng trong phạm vi cá nhân của mình.

Cũng chính vì tính cách bảo mật ấy đã biến cơ quan tình báo CIA đã đi xa cái mục đích ban đầu trong việc đi tìm sự thật của nó.

Nó trở thành một cơ quan với  thuyết ClandestineVới nguyên tắc này, cơ quan tình báo CIA đã can thiệp vào nhiều biến cố chính trị lớn nhỏ trên thế giới trong việc thu thập tin tức, đến xâm nhập, phản tuyên truyền, ngụy tạo tin tức, ngụy tạo bí mật, ngụy tạo hồ sơ, mua chuộc bằng tiền bạc, cài người, cung cấp các phương tiện vật chất ngay cả vũ khí, các phương tiện truyền tin, ấn loát, tổ chức khuynh đảo công khai hoặc bán công khai ngay cả đến lật đổ một chính phủ cũng như thủ tiêu, ám sát một nhân vật lãnh đạo đối thủ nếu cần.

Nhất là kể từ sau thế chiến thứ hai trong cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tự Do và Cộng Sản. Sự sợ hãi chủ thuyết cộng sản đã mở đường cho một số nhà lãnh đạo  cấp cao của nước Mỹ có một xác tín rằng thế chiến II là “The wrong war against the wrong enemies” (xem William Blum, The CIA, a forgotten history. 1986, trang 15).

Vì thế, theo họ, đáng lẽ những nỗ lực chiến tranh chống Phát Xít Đức thì nên dồn về phía Đông và loại trừ chủ nghĩa Bolshevism một lần cho tất cả.

Sự xoay trục này cho thấy ngay khi chiến tranh thế chiến II vừa chấm dứt, các văn bản đầu hàng được ký kết giữa đồng minh và phe trục chưa ráo mực thì người Mỹ ở Trung Hoa  đã xử dụng lính Nhật còn đóng tại Trung Quốc cùng với Mỹ để chống cộng sản Trung Hoa.

Điều ấy cũng ít ai nhận ra. Và điều ấy cũng đã xảy ra tương tự tại Phi Luật Tân.

Mặc dầu trong thế chiến II, cộng sản Trung Hoa cùng sát cánh với đồng minh chống Nhật. Nhưng điều ấy không còn quan trọng nữa.

Người Mỹ đã chọn tướng Chiang Kai-Shek như người của họ qua cơ quan The office of Strategic Service (OSS, tiền thân của cơ quan tình báo CIA).

Theo nhận định của tác giả Leon Blum, khi chiến tranh kết thúc tại Trung Hoa, thay vì giải giới binh sĩ Nhật đã đầu hàng và cho họ xuống tàu về nước. Lính Nhật được giữ lại và có nhiệm vụ giữ an ninh lãnh thổ Trung Hoa ngay trên các khu vực mà trước đây họ đã chiếm đóng. Nếu không có lính Nhật thì toàn thể nước Trung Hoa đã bị Mao Trạch Đông nuốt trửng ngay từ năm 1945. Nhờ đó, người Mỹ có thời gian để chuyển vận quân đội của Tưởng Giới Thạch về phía Nam. Tổng thống Truman nói: “Using the Japanese to hold off the Communists” (Dùng quân đôi Nhật để cầm chân cộng sản). (Leon Blum, Ibid, trang 15).

Sau đó, Mỹ đã bỏ ra khoảng 2 tỉ đô la tiền mặt và một tỉ đô la tiền trang bị vật liệu và huấn luyện cho 39 sư đoàn của họ Tưởng. (Leon Blum, Ibid., trang 17)

Và để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới, CIA Mỹ đã can thiệp cách này cách khác vào 49 nước. Nước Tàu từ 1945-1960, Phi Luật Tân 1940-1950. Hy Lạp từ 1947-1950. Ý 1947-1948. Đại Hàn 1945-1953. Đông Âu 1948-1956. Nước Đức 1950… Sau đó là Iran, Guatemala, Costa Rica, Syria, Trung Đông, Indonesia. Brazil, Peru, Dominican Republic, Cuba 1959-1980, Ghana, Uruguay, Chile, Bolivia, Angola, Zaire, Jamaica, Morocco, El Salvador, v.v..

Tổng thống Mỹ chúc mừng Chủ Tịch và nhân dân Trung Hoa Cộng sản (Trung Cộng) nhân dịp 70 năm Đảng Cộng sản Trung Hoa cầm quyền, cũng là chứng cớ nghiệt ngã cho sự tàn bạo của Cộng sản Trung Hoa. Nguồn: Twitter.com
Tay bắt mặt mừng: TT Mỹ Donald J. Trump và trùm Cộng sản Bắc Hàn Kim Jong-un. Nguồn: NPR

Việt Nam chỉ là một trong những nạn nhân của chính phủ Mỹ.

Việt Nam không còn là “một trong những nạn nhân của chính phủ Mỹ”: Tổng thống Donald J. Trump hân hoan phất cờ Việt Nam Cộng sản bên cạnh Thủ tướng CHXHCNVN Nguyễn Xuân Phúc. Nguồn: Saul Loeb / AFP/Getty Images

Sơ lược về các sự can thiệp của CIA vào nội tình của 50 các nước khác để thấy rằng trường hợp Việt Nam cũng nằm trong chuỗi mắt xích ấy. Và khi hiểu như thế rồi thì tất cả những gì đã xẩy ra ở Việt Nam là điều không lạ. Sớm nhất là nước Trung Hoa, sau đó đến Việt Nam và muộn nhất là trường hợp Nicaragua (1981) và Iraq cách đây hơn 10 năm.

Sự can thiệp dưới mọi dạng thức như tuyên truyền, âm mưu lật đổ chính quyền, bầu cử gian lận, ám sát các nhà lãnh đạo, ngụy tạo tin tức.. Và tất cả được dàn dựng che mắt thứ nhất và trên hết là người dân Mỹ, sau đó đến các nước liên hệ và cuối cùng cả thế giới về tính hợp pháp, tính chính nghĩa nhân danh lý tưởng tự do, dân chủ của những hoạt động khuynh đảo đó.

Tất cả những điều ấy đều xảy ra y hệt ở Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa. Nhìn lại chính xác điều ấy để trách mình thay vì trách nhau.

CIA ở Việt Nam

Và đến lượt Việt Nam từ 1950-1973.

Sự có mặt của Người Mỹ và CIA vào năm 1950 ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc mang tính cách “quốc tế” rồi. Mục đích chính là be bờ, ngăn chăn chủ nghĩa cộng sản lan rộng. Mao Trạch Đông đã thống nhất nước Tàu vào năm 1949 sau khi đuổi Tưởng Giới Thạch ra khỏi Thượng Hải ngày 27-5-1949. Một tháng sau mất Nam Kinh. Tưởng Giới Thạch chạy đến Trùng Khánh, rồi Hải Nam và cuối cùng ra Đài Loan, sau 30 năm nội chiến, đánh Nhật, rồi thua Cộng sản.

Và Mao Trạch Đông sau khi đã làm chủ toàn thể nước Trung Hoa đã đưa ra lời cảnh cáo Mỹ và Anh bằng những lời lẽ đe dọa như sau:

“Chúng tôi chủ trương rằng tất cả các chính quyền ngoại quốc giúp đỡ bọn phản động Trung Quốc và chống đối lại cuộc chiến đấu của dân tộc chúng tôi cho nền dân chủ đều phạm phải lỗi lầm không tha thứ được.”

Han Suyin, Le Déluge du matin. La presse. Stock. 1972, trang 477)

Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối càng trở nên sâu đậm, rõ nét hơn khi có cuộc chiến tranh Cao Ly vào tháng 6 năm 1950. Đông Dương trở thành vùng trọng điểm bảo vệ vùng Đông Nam Á. Và người Mỹ nay sẵn sàng trả giá cho những chi phí quân sự cho người Pháp và một chính quyền do Bảo Đại cầm đầu.

Tài liệu CIA có ghi rõ:

“The final Communist victory in China in 1949 and Pyongyang’s invasion of South Korea in 1950 reinforced the American view of Communism as an implacably expansionist monolith. Indochina came to be seen as critical to the defense of the Asian littoral. (…) In february 1950, The French National Assembly ratified the agreement etablishing Emperor Bao Dai as the head of a nominally independent Viet Nam. This pro forma gesture sufficed, in the cirscumstances, to assuage Washington’s anticolonial bias, and the door opened to a program of direct support to the French Expeditionary Corps.”

Thomas L. Ahern Jr. (2000), CIA and the House of Ngo, Center for the Study of Intelligence, USA. Approved for release date 19-feb-2009, trang 3

Sự trợ giúp quân sự của Mỹ cho Pháp mỗi ngày mỗi gia tăng vào khoảng một tỉ đô la một năm. Đến 1954 thì số tiền lên đến 1 tỉ 400 triệu đô la/năm và chiếm 78% ngân sách chiến tranh của Pháp. (William Blum, Ibid, trang134).

Cần ghi nhận ở đây là trong những hoạt động của CIA có mặt trắng, mặt đen.

Khi cần thì mặt trắng là những điều tốt như viện trợ, làm các công tác xã hội, phát triển cộng dồng như đào giếng, tạo dựng  các khu dân sinh, hỗ trợ văn hóa như tài trợ các cơ sở văn hóa như Asia Foundation, v.v.. Măt đen là tuyên truyền nói xấu, dựng chuyện, khuynh đảo. Thật không dễ để nhận ra hai mặt trắng đen ấy.

Xin mở một dấu ngoặc là trước khi bắt đầu có cuộc chiến tranh Đông Dương thì vào năm 1945, Ho Chi Minh có viết khoảng 8 lá thư cho TT Mỹ Truman và Bộ Ngoại Giao Mỹ để xin trợ giúp quân sự để đánh đuổi Nhật. TT Mỹ đã không trả lời, không đáp ứng những mong đợi của Hồ Chí Minh  và cũng đã không tiết lộ đã nhận được những lá thư đó. Nhưng cơ quan OSS có nhận huấn luyện cho bộ đội của Võ Nguyên Giáp và cung cấp một số võ khí. Và chỉ có vậy. Hồ sơ này sau đó chỉ được tiết lộ trong hồ sơ của Bộ Quốc Phòng Mỹ tên là “The Pentagone Papers”.

Theo Lữ Giang, toán người Mỹ có tên là Dear Team thuộc tổ chức OSS của Hoa Kỳ đến Tuyên Quang huấn luyện về tình báo và quân sự cho Việt Minh  tổ chức chống Nhật. Họ có chụp ba tấm hình; một tấm hình cho thấy có 6 người Mỹ và 5 người Việt, trong đó có Võ Nguyên Giáp và Hồ Chinh Minh. Một tấm khác cho thấy, người Mỹ đang dạy du kích quân tập ném lựu đạn. Tấm chót cho thấy dân quân đang gánh tải đạn cho Việt Cộng. ( Lữ Giang, Những bí ẩn lịch sử đằng sau cuộc chiến Việt Nam, Quyển I, 1999, trang 236)

Có một điều cần ghi lại ở đây là sau thế chiến thứ hai, khi người Pháp quay trở lại Việt Nam thì tướng Leclerc cũng đã tuyên bố vào tháng 9-1945 như sau:

“I din’t come back to Indochina to give Indochina back to the Indochinese”. Subsequently, the French emphasized that they were fighting for the “free world”against communism, a claim made in no small part to persuade the United States to increase its aid to them.”

William Blum, Ibid, trang 134

Trong khi đó về phía Việt Minh, họ đã dấu cái đuôi cộng sản và vì vậy đã lừa dược nhiều người Việt Nam yêu nước trong hàng ngũ của họ để chống Pháp thực dân thay vì chống cộng sản.

Có một số chi tiết mà trước đây không ai ngờ tới là vào năm 1952, người Pháp muốn mở một cuộc thương lượng với Việt Minh tại Miến Điện. Người Mỹ đã làm áp lực mạnh mẽ trên phái đoàn thương thuyết của Pháp và làm trì hoãn cuộc thương thuyết và phái đoàn đã được gọi khẩn cấp về Ba Lê. Áp lực của người Mỹ là nếu Pháp mở cuộc đàm phán với Việt Minh thì Mỹ sẽ cúp viện trợ. (William Blum, Ibid, trang 135.)

Rõ rệt hơn nữa, nếu cần người Mỹ sẽ loại người Pháp và chiến đấu một mình với Việt Minh. Vì người Mỹ qua Đề đốc Arthur Radford đã gửi môt khuyến cáo đến Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Charles Wilson nhan đề “Studies With respect to Possible U.S. Actions Regarding Indochina”. Nội dung bản báo cáo tin tưởng rằng có thể có lợi thế quân sự trong việc dùng ngay cả máy bay quân sự thả bom nguyên tử để tiêu diệt Việt Minh. Tuy nhiên đề nghị ấy đã không được Bidault của Pháp chấp nhận vì bom nguyên tử có thể gây tổn thất cho cả binh đội Pháp lẫn Việt Minh.

Sách của W. Blum viết:

“A Council paper recommended that “It be U.S policy to accept  nothing short of a military victory in Indo-China”and that the “U.S. actively oppose any negotiated settlement in Indo-China at Geneva”. The Council Stated further that, if necessary, the US should consider continuing the war without French participation.”

William Blum, Ibid., trang 136

Nhưng kết thúc là Hiệp Định Geneve đã được ký kết không có sự  ký kết của Bảo Đại cũng như người Mỹ. Việc không ký kết này giúp người Mỹ không bị ràng buộc vào những điều khoản phải được đôi bên tôn trọng. Vì tổng thống Mỹ Eisenhower đã tuyên bố:

“I will not be a party to any treaty that makes anybody a slave, now that is all there to it. But the US did issue a “unilateral declaration”in which it agreed to “refrain from the threat of the use of force to disturb “the accord.”

William Blum, Ibid., trang 13

Hải quân Mỹ trực tiếp điều động cuộc di cư trong Chiến dịch Đường đến Tự do (Operation Passage to Freedom, bắt đầu từ 11 tháng 8, 1954) đưa hơn 300,000 dân, quân cán chính và cả người Pháp vào Nam bằng đường biển. Tổng số người di cư từ Bắc vào Nam (1954-55) là hơn 800,000 người. (Ronald B. Frankum Jr., Operation Passage to Freedom, Texas Tech University Press, 2007)

Giao tiếp đầu tiên giữa CIA và ông Ngô Đình Nhu

Theo tài liệu CIA thì “Từ 1951, cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ CIA đã cử điệp viên Edward Korn (sau đổi họ là Korn Paterson) sang Việt Nam liên lạc với Nhu.”

Ngoài Korn còn có Virginia  Spence, một nhân viên văn phòng không có huấn luyện về tình báo, nhờ thông thạo tiếng Pháp; Spence giữ được mối liên lạc thân tình với bà Nhu. Sau này qua ông Nhu, Spence còn có cơ hội gặp TGM Ngô Đình Thục, ông Trần Quốc Bửu, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao công Việt Nam. Spence nhớ lại về ông Nhu, vào giai đoạn đó, “he needed us far more than we needed him.”

Thomas L. Ahern Jr. (2000), CIA and the House of Ngo, Center for the Study of Intelligence, USA, Trang 21-22

Ahern Jr. ghi  thêm ý kiến của Spencer về Nhu như sau

“The Station had no illusion about either Nhu’s personal qualificaions or his influence on the local political sense. Spence described Nhu and his Workers’ Party  cadres as “seven busy little politicians”. She saw him as “a born schemer”whose potential looked greater for covert action than for intelligence collection:

“Anything a friend tells him he swallows whole. He does have a certain political stature and a great flair for making nothing look like something.” [Xóa trắng 2 dòng].

But Nhu was intelligent, energetic, and passionately nationalistic. At the time, he displayed what Harwood saw as liberal impulses that offered the prospect of a compatible joint approach to questions of political organization. In any case, there was nobody else.

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 23

Mặc dầu có sự đánh giá khá thấp của nhân viên CIA về Ngô Đình Nhu. Họ cho rằng ông Nhu cũng chẳng có một tổ chức chính trị  hay có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ. Nhân sự có khả năng thích ứng được với tình thế thật hiếm hoi, như trường hợp Trần Văn Đỗ, chú của bà Nhu. Một người trông hiền lành, nhưng thiếu nghị lực, thiếu can đảm, thiếu hành động. Cùng lắm chỉ là một thứ công chức. Vậy mà khi thành lập chính phủ, ông Diệm cũng phải bổ nhiệm Trần Văn Đỗ làm Bộ trưởng Bộ ngoại giao.

Năm 1954, ông Trần Văn Đỗ được bổ nhiệm làm Trưởng phái đoàn đại diện Quốc gia Việt Nam ở Genève, thay cho ông Nguyễn Quốc Định. Ông nhất quyết không ký vào Hiệp định Genève vì không chấp nhận việc chia cắt Việt Nam, và nhân danh phái đoàn Quốc gia Việt Nam ra một tuyên bố riêng:

“… chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”

Bác sĩ Trần Văn Đỗ được Thủ tướng Diệm bổ nhiệm làm bộ trưởng Ngoại giao đã bị loại từ 1955 vì chính quyền cho rằng ông ủng hộ Bình Xuyên. Ông Trần Văn Đỗ là một trong 18 người thuộc nhóm Caravelle ký tên vào thỉnh nguyện thư, còn gọi là Tuyên cáo Caravelle gửi tổng thống Diệm đòi chính phủ cải tổ vào tháng 4 năm 1960.]

Bên cạnh Trần Văn Đỗ còn có một nhân vật thuộc đảng Đại Việt cũng sáng giá là ông Nguyễn Tôn Hoàn ở ngoài Bắc lúc đầu. Người Mỹ có tiếp xúc, nhưng cũng không dùng. Đây là một chính khách “sa lông”, ngay từ năm 1946 đã lưu vong sang Tàu. Thời Ngô Đình Diệm, khi chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) bị triệt hạ. Ông lại đành lưu vong sang Pháp mở nhà hàng ăn. Thời Nguyễn Khánh lại được  chiêu mời về tham gia chính phủ, rồi cũng không xong. Nói chung, các nhà chính trị miền Nam đều như thế cả.

“These men who have schemed and fought and gone without to get political power don’t have any idea what to do with it now that it’s within their grasp. All the shouts “ Throw out the French,” “Throw out Bao Dai,”  “Up Democracy,” “Down communism” don’t do a thing for the day-to-day running of a government. They are like the bride who couldn’t see beyond the end of the church’s aisle. Now someone is going to… ask them to collect taxes and do something for the working man and I think they are scared. They need support, all right, but they do not realize how much.”

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 21

Đó là nhận xét của Virginia Spence, về những chính khách quốc gia chống Việt Minh ngay trước khi ông Diệm được bổ làm Thủ tướng, trong cuộc phỏng vấn với Thomas L. Ahern Jr. ngày 31 tháng 7, 1964.

CIA thấy rằng cuối cùng cũng chẳng có ai khá hơn các ông Diệm, ông Nhu.

Sau đó Harwood có thảo luận với người Pháp để lập một tân chính phủ không cộng sản tại Việt Nam. Harwood gặp Ngô Đình Nhu vào tháng năm và đưa ra một đề án

“plans which might involve Diem”. He said the Agency understood the brothers to be in contact and asked if Diem would accept a position other than that of prime minister. Nhu’s answser was categorical “no”.

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 23

Sau này gạo đã thành cơm. Ông Diệm đã được các nhân viên CIA như John Anderton và McCarthy móc nối lại với ông Diệm và Bảo Đại tại Paris. Việc bổ nhiệm ông Diệm làm Thủ tướng là điều trở nên thực tế hơn. Và trong đó có một điều quan trọng nay cần nhắc lại ở đây là cần bảo đảm tính liên tục cho chính quyền Ngô Đình Diệm không bị Bảo Đại  giải tán chính phủ.

Điều đó được ghi lại như sau:

“The term also included a requirement for CIA access to Bao Đai in order to prevent him from dismissing a Diem government “on a whim” and for the  continued secrecy of the liaison wih CIA.”.

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 25

Vì thế sau này, ông Diệm đã không chịu rời Việt Nam sang Pháp như lời Bảo Đại yêu cầu cũng là điều hiểu được, vì nằm trong thỏa thuận giữa Nhu và CIA với Bảo Đại.

Phần Nhu cho biết không nhận bất cứ chức vụ nào trong chính phủ của Diệm.

“Nhu insisted that he would accept no position in his brother’s Cabinet, and Spence believed he had “worked so long covertly he couldn’t bear to do otherwise.”

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 25

Và kể từ nay, sự hình thành chính phủ Diệm luôn luôn có sự có mặt của CIA trong mọi tình huống, từ những chi tiết cũng như việc nhỏ nhặt . Và Harwood trở thành người thân thiết trong gia đình của Nhu, là cha đỡ đầu của Lệ Thủy, con gái đầu lòng của vợ chồng Nhu.

Edward Lansdale vào cuộc ngày 7-7-1954

Sự vào cuộc của Edward Lansdale thời Đệ Nhất Cộng Hòa ghi đậm nét một dấu thử nghiệm cuộc chiến tranh phản gián chống lại cộng sản trên mọi mặt.

Edward Lansdale mang vào Việt Nam tất cả những thành quả và kinh nghiệm chiến đấu thành công với thử nghiệm COIN (Kỹ thuật phản gián) và việc loại trừ phiến quân Hukbalahap ra khỏi giới nông dân nghèo Phi Luật Tân. Tuy nhiên vấn đề còn lại là mỗi xứ sở bất hạnh lại có những vấn đề bất hạnh theo cách riêng. Có những bất hạnh chung như số phận ngắn ngủi của TT. Ramon Magsaysay (rớt máy bay tháng 3-1957) và ông Diêm bị thảm sát với sự đồng lõa ngầm của cánh diều hâu Mỹ tháng 11-1963. Liệu cả hai còn sống thì số phận đất nước họ ra sao?

Nếu Edward Lansdale đã thành công ở Phi Luật Tân thì ở Việt Nam, ông đã gặp nhiều khó khăn về phía nội bộ chính quyền Việt Nam cũng như chính quyền Mỹ và cả về phía Việt Minh cộng sản.

Trước hết, cộng sản Việt Nam không phải phiến quân HUK. CSVN được huấn luyện, nhồi sọ kỹ càng hơn bất cứ loại chiến binh nào. VNCH phải đối đầu với một kẻ thù có quyết tâm và tàn bạo hơn bất cứ đạo quân nào. Chiều kích chiến tranh Việt Nam mở rộng ra sự can thiệp của thế giới với sự có mặt của Tàu và Liên Xô như hệ thống hậu cần. Cho dù cuộc chiếc tranh phản gián trên mọi mặt như tâm lý chiến như phát quà, chữa bệnh, tuyên truyền, xâm nhập, khuynh đảo đến bình định nông thôn, với hứa hẹn người cầy có ruộng liệu có phải là giải pháp duy nhất để chiến thắng Cộng sản với một giá rẻ về người và tiền bạc mà không cần đến bom Napalm và sau này bom trải thảm của B,52?

Sau này với sự thất bại của tướng William Westmoreland trong việc tập trung tấn công dựa vào võ lực đã thất bại với cuộc chiến tranh du kích trong trận chiến Mậu Thân. Và tướng Creighton Abrams nhấn mạnh vào chuyện bình định nông thôn đã gặp trở ngại về một cuộc chiến tranh quy ước vào năm 1972?

Bấy nhiêu thử nghiệm thêm vào việc đếm xác chết (body Count), Bombing-run, Free-fire Zones đã thu được kết quả gì? Lewis Sorley trong cuốn Westmoreland. The general who lost Vietnam viết:

“Westmoreland often maintain that “our purpose was to defeat the enemy and pacify the country, and the country couldn’t be pacified until the enemy was defeated.”In his term, defeated meant killed, which in turn etablished body count as the measure of merit in this war.”

Lewwis Sorley. Westmoreland Boston NewYork, 2011 trang 121

Người ta thấy là người Mỹ cũng như quân đội VNCH không đủ năng lực để cùng lúc chống đối hai mặt trận chiến tranh quy ước và chiến tranh du kích.

Vì thế, Max Boot, một sử gia quân sự trong cuốn sách của ông. The Road not taken. Edward Lansdale and the tragedy in Viet Nam đã nhằm giới thiệu và ủng hộ quan điểm chiến tranh phản gián của Edward Lansdale như một giải pháp cho Việt Nam và sau này trong trường hợp Iraq.

Sau ông Diệm, chính sách đưa quân ồ ạt vào Việt Nam hẳn là đi ngược đường lối chiến tranh của Edward Lansdale.

Sau đây là phần tóm tắt lại những công việc mà vị tướng tình báo đã làm trong hai năm rưỡi giúp ông Diệm.

Có cơ hội để nhìn lại cho thấy vai trò của CIA, qua Edward Lansdale là một cần thiết của nền Đệ Nhất Cộng Hòa còn non yểu. Giả dụ mà không có Edward Lansdale thì liệu chế độ Ngô Đình Diệm tồn tại được bao lâu.

Trước khi ông Diệm từ Paris về Việt Nam đầu tháng sáu thì Edward Lansdaleđã có mặt trước một tháng để chuẩn bị bãi đáp cho ông Diệm về cầm quyền.

Công việc của Edward Lansdale lúc bấy giờ là tạo cho ông Diệm một vị thế vững vàng. Ngày mồng 7 tháng 7-1954, không hẹn trước, Edward Lansdale cùng với George Hellger cũng là thông dịch viên đến gặp Diệm. Mặc dầu nói thông thạo tiếng Anh, nhưng ông Diệm trong hai năm rưỡi trời liên lạc với Edward Lansdale, ông chỉ nói tiếng Pháp. Lansdale đề nghị với đại sứ Mỹ Heath và đưa ra một chương trình 3 năm để giúp Diệm. Heath đồng ý và để cho CIA hành dộng bên cạnh Diệm.

Ngày 12, đại sứ Heath và Landsdale cùng đến gặp Diệm và yêu cầu Diệm nhận Lansdale như một cố vấn riêng của Diệm. Và cũng trong buổi gặp gỡ này, Lansdale đã  đưa ra chương trình “emergency adoption” như kêu gọi sự hợp tác của các giáo phái tham gia vào lực lượng quân đội của chính phủ và một số chương trình cải cách khác. Nhưng xem ra Diệm ít quan tâm đến việc phải mặc cả với các giáo phái mặc dù có chiều hướng muốn hợp tác với chính quyền mới. Harwood báo cáo là các giáo phái, đảng Đại Việt, vài nhóm Thiên chúa giáo ngay cả Bình Xuyên đều muốn về hợp tác với chính quyền và hy vọng được đáp trả cân xứng

“would like to offer their loyalty to the government for something in return, but Diem has shown little desire to bargain. This attitude was not, as Harwood dryly noted, “a political asset which will attract mass support.”

Thomas L. Ahern Jr., Ibid, trang 31

Ông Diệm bỏ phiếu trưng cầu dân ý 1955. Nguồn: alphahistory.com

Đại tá Edward Lansdale đề nghị với Thủ tướng Diệm làm phiếu đỏ cho mình và màu xanh lá cây cho Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý  ngày 7 tháng 7 năm 1955. Vì màu đỏ tượng trưng cho sự may mắn và màu xanh lá cây tượng trưng cho sự xấu xa, hai người hy vọng rằng nhiều người mê tín sẽ bỏ phiếu cho Diệm.

Kết quả Bảo Đại được 1.09% số phiếu; Ngô Đình Diệm được, 98.91%, tổrg số phiếu là 108.42%!

Kết quả Trưng cầu Dân ý ngày 23-10-1955. Nguồn: Direct Democracy

Đại tá Lansdale, nói với ông Diệm rằng tỷ lệ thắng của ông là quá đáng để công chúng có thể tin. Ông đề nghị Diệm công bố một con số gần khỏang 70%. Ông Diệm không đồng ý. (The Election of Vietnamese President Ngo Dinh Diem, October 1955)

Sau đó cả hai ông Diệm và Lansdale đã tích cực trong việc đưa một triệu người miền Bắc vào Nam. Lansdale lo việc vận động di cư. Ông Diệm lo định cư và ổn định đời sống cho những người di cư này.

Kinh nghiêm chiến tranh tâm lý thành công ở Phi Luật Tân đã được nhóm người của CIA áp dụng ròng rã trong 6 tháng tại miền Bắc trước cuộc di cư với khẩu hiệu, truyền đơn như: “Christ has gone to the South”hoặc “Virgin May has departed from the North” hay “They voted with their feet”.  Đồng thời, tẩy chay các hãng Pháp muốn tiếp tục ở lại làm ăn với Việt Cộng.  Theo Victor Marchetti và John Mark, các khấu hiệu tuyên truyền đã đem lại kết quả như sau:

“The day following the distribution of these leaflets, refugee registration tripled. Two days later, Vietminh took the radio to denounce the leaflets; the leaflets were so authentic in appearance that even most the rank and file Vietminh were sure that the radio denunciations were a French tricks.”

Victor Marchetti, John D. Marks, The CIA and the Cult of Intelligence, trang 171

Phải nói đây là những giai đoạn  hợp tác tốt đẹp và ăn ý nhất giữa đôi bên.

Nhờ cả Mỹ và chính phủ Bảo Đại đã không ký vào Hiệp Định Genève nên họ có đủ lý do để trì hoãn việc tổng tuyển cử như quy định sau hai năm. Bởi vì, theo Eisenhower, nếu có cuộc tổng tuyển cử thì đến 80% dân chúng lúc bấy giờ sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh thay vì Bảo Đại. (Sau này là ông Ngô Đình Diệm.)

Tuy nhiên, Edwward. Miller có ý kiến trái ngược đáng xét lại. Vì ông cho rằng vai trò của ông Nhu trong việc chuẩn bị cho ông Diệm về nước cũng như điều hành có tính toán và tổ chức chu đáo không hẳn như những nhận định của CIA và Lansdale. Edward Miller nhận xét:

“All of these caricatures of Diem are based on false assumptions, and many of conclusions drawn from them are wrong. Contrary to what the puppet thesis suggests, Diem obtain power in 1954 through his own efforts anh those of his brothers, not because of a U.S. Pressure campaign. His subsequent success in consolidating his power in South Vietnam was also mainly the result of his own maneuver.”

Edward Miller, Ibid, trang 15

xem tiếp phần 2

16 BÌNH LUẬN

  1. Nhà văn Huy Phương : “Ngay từ thời Tổng thống Ngô đình Diệm, năm 1960,Việt Nam Cộng Hòa đã được 83 nước trong Liên Hiệp Quốc và thế giới công nhận, trong khi đó Bắc Việt chỉ có 15 nước công nhận. Danh sách các nước công nhận đều có ghi đầy đủ trong sách “ Lược Sử Quân Lực VNCH của Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân và Lê Đình Thụy.

    “Cũng thời kỳ đó, Việt Nam Cộng Hòa đệ đơn xin gia nhập Liên Hiệp Quốc, do Đại sứ Pháp ở LHQ là ông Chauvel chuyển đơn, đã được Tổng Thư Ký LHQ là ông Tryge Lye chấp nhận . Nhưng sau cùng bị Liên Xô dùng quyền phủ quyết, nên không được vào LHQ. Lào và Cambodia được vào LHQ.
    “Tuy không vào LHQ nhưng Việt Nam vẫn được mời gia nhập các Tổ Chức của LHQ như Y tế Quốc Tế, Lương Nông Quốc Tế… “Việt Nam còn gia nhập SEATO (South East Asia Treaty Organisation) chính Tổng thống Ngô Đình Diệm đi họp, được tiếp đón rất long trong. Cộng Sản Bắc Việt không có mặt trong các tổ chức này “.

  2. Nhà thơ Trần Trung Đạo: Năm 2003, Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Donald Rumsfeld là người phác họa kế hoạch tấn công Iraq nhưng vào năm 1983 cũng chính Donald H. Rumsfeld này, với tư cách đặc sứ của TT Ronald Reagan được Saddam Hussein tiếp đón niềm nở. Hoa Kỳ nuôi dưỡng chế độ độc tài Saddam Hussein để làm đối lực với Iran cùng khối Hồi Giáo cực đoan quá khích và hợp tác khai thác dầu hỏa với chế độ độc tài này. Khi bắt tay với Saddam Hussein, Donald Rumsfeld đã biết Iraq dùng vũ khí hóa học trong chiến tranh chống Iran và tàn sát thường dân Kurds nhưng ông ta im lặng. Hai chục năm sau, Mỹ xua quân lật đổ Saddam Hussein cũng không phải vì lòng thương xót số phận đau thương của người dân Iraq mà chỉ vì quyền lợi của nước Mỹ.

  3. Ông Ngô Đình Diệm xứng đáng là lãnh tụ của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa: Uy vũ bất năng khuất, chống cả Thực dân lẫn Cộng sản :

    *Mặt đối mặt với Quỷ Đỏ Hồ chí Minh, ông Diệm từ chối cộng tác, và nói huỵch tẹt:

    Ông Diệm: “Tôi đấu tranh cho lợi ích của đất nước, nhưng tôi không thể bị chi phối bởi áp lực. Tôi là một người tự do.Tôi sẽ mãi mãi là một người tự do. Anh hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là một người sợ áp bức hay sợ chết không?”.

    *Trong cuộc gặp gỡ lần cuối với đại sứ với Cabot Lodge – đại diện cho nhà cầm quyền thực dân Kennedy, ông Diệm đã nói huỵch tẹt ra:

    ” Tôi không phải là con rối . Tôi không phải là bù nhìn. Tôi không phải là đầy tớ ”

    “Je ne suis pas une marionnette,” Diem said. “Je pas serveur. I am not a puppet. I will not serve. Diem would reserve these words for one of his last meeting with Lodge. In this first meeting, he indicated his disapproval with facial expression.”
    (Nguồn: Tác giả Patrick J. Sloyan, sách” JFK’s Secret Decisions on Vietnam, Civil Rights, and Cuba · The Politics of Deception “)

    *”Diệm luôn luôn là Diệm ” như Seth Jacob nhận định: “Diệm không bao giờ giả vờ là bất cứ cái gì khác hơn là những gì ông ấy đã là và ông ấy không bao giờ thay đổi.” Seth Jacob: “Diem never pretend to be anything other than what he was and he never changed.” Seth Jacob, tác giả cuốn “America’s Miracle man in Viet Nam “.

    • Năm 66, trên phi cơ giải về Sài gòn, Việt cộng Thích trí Quang run rẩy sợ bị ném xuống biển :

      Tướng Nguyễn cao Kỳ : “TTQuang mưu toan kiểm soát chính quyền từ trong hậu trường đã cản trở nỗ lực chiến tranh. Các Phật tử đã đóng một vai trò quan trọng trong sự sụp đổ trước tiên là của ông Diệm, rồi đến ông Khánh và ông Hương.

      Ngày 22/5/1966, các tờ báo lớn ở Mỹ như Chicago Tribune, The New York Times đều đăng bài ông Nguyễn cao Kỳ tuyên bố Thích trí Quang là tên Cộng sản :

      Chicago Tribune, The New York Times: Ky Denounces Thich Tri Quang, Top Buddhist Leader, as a Red
      May 22, 1966

      VUNGTAU, South Vietnam, May 21 Premier Nguyen Cao Ky tonight described Thich Tri Quang, the most powerful of the anti-Government Buddhist monks, as a Communist.
      He strongly defended his use of force against Buddhist-led rebels in Da Nang.
      Do you consider Tri Quang a communist ?
      “ In my opinion, yes”
      ……..
      Đang trên phi cơ khi bị dẫn giải về Sài gòn, Trí Quang run sợ hỏi phi hành đoàn:
      ” Mấy ông sẽ vứt tôi xuống biển hả?”
      Họ trả lời : ” Không, theo lệnh trên, mang ông về Sài gòn”

      “‘Are you going to drop me into the sea?’ He quailed.
      – ‘No, said the crewman, our orders to bring you to Saigon.’”

      ( Nguồn : Nguyen Cao Ky, Marvin J. Wolf, “Buddha’s Child: My Fight to Save Vietnam”

      “Trí Quang bị giải về Sài Gòn , giam lỏng tại dưỡng đường Duy Tân của bác sĩ Nguyễn Duy Tài – bạn của Trí Quang. Tạị nơi đây, Trí Quang tuyên bố tuyệt thực 100 ngày “.
      Tướng Kỳ thuật lại rằng “ Biết các loại thủ đoạn ông ta có thể sẽ dùng đến , tôi cố tình chọn một bệnh viện, ở đó có bác sĩ là bạn của ông ta. Trí Quang trông chẳng giảm cân tí nào. Khi người Mỹ hỏi tôi khi nào ông ta chết, tôi trả lời đừng lo, ông ta sẽ sống để mà còn tiếp tục cuộc đời chính trị của ông ta chớ. Ông ta là một chính trị gia và người bạn bác sĩ đã bí mật cho ông ta ăn…”.
      Kể từ đây, cuộc đời làm chính trị của Trí Quang tan thành mây khói.

  4. Sử gia Trần Gia Phụng nói rằng một trong những lý do miền Nam sau này thiếu nhân tài là do Hồ chí Minh giết hại nhiều người quốc gia .

    Theo tác giả Joseph Buttinger của cuốn Vietnam: The Unforgettable Tragedy, Võ nguyên Giáp đã bắt giam 200 thủ lãnh đối lập, và giết một số người,trong đó có Vũ Đình Chi- một cây bút nổi tiếng của tờ Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

    Tác giả còn nêu trường hợp nhiều người khác bị giết do không tán thành Việt Minh trong đó gồm có:

    – Trương Tử Anh, đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng bị Việt Minh bắt mùa hè 1946, trong chiến dịch lùng diệt đối lập và không bao giờ thấy tăm tích đâu nữa.
    – Bùi Quang Chiêu, người sáng lập Đảng Lập Hiến, cùng đi Pháp trên chuyến tầu mà Hồ Chí Minh làm phụ bếp năm 1911.
    – Hồ Văn Ngà, đảng trưởng Đảng Độc Lập, ủy viên Mặt Trận Thống Nhất.
    – Nguyễn Văn Sâm, Khâm Sai triều đình Huế ở Nam Kỳ
    – Phạm Quỳnh, học giả, đại thần và cố vấn của Bảo Đại.
    – Ngô Đình Khôi, anh ruột tổng thống Ngô Đình Diệm, bị giết cùng với con là Ngô Đình Huân.
    – Huỳnh Phú Sổ, theo tác giả, là nhà tiên tri, sáng lập và giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo.
    – Tạ Thu Thâu
    – Trần Văn Phát và Nguyễn Văn Thoại, hai người có xu hướng Nam Kỳ tự trị. Ông Phát bị giết ngày 29-3-46 và ông Thoại ngày 3-5-46.

  5. Bầu cử kiểu Việt Minh (VM) !

    Chính phủ Liên Hiệp ra đời tại Hà Nội ngày 1-1-1946, do Hồ chí Minh làm chủ tịch, Nguyễn Hải Thần phó chủ tịch, với đa số là đảng viên cộng sản, thân cộng sản (cộng sản trá hình) và một số đảng viên các đảng phái khác làm bộ trưởng. Đồng thời một Hội đồng Quốc phòng được lập ra do Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch và Vũ Hồng Khanh giữ chức phó chủ tịch. (Đây là chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng đầu tiên sau năm 1945.)

    Theo thỏa thuận “hợp tác tinh thành”, cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức ngày 6-1-1946 trên toàn quốc, gồm tổng cộng 333 ghế. Hồ chí Minh đắc cử ở Hà Nội. Cựu hoàng Bảo Đại không ký đơn ứng cử, thế mà vẫn đắc cử ở Thanh Hóa. (Nguồn: Bảo Đại, “Con Rồng Việt Nam ” )

    Tuy Quốc hội lập hiến đã được bầu xong, nhưng các đảng phái không cộng sản tiếp tục phản đối mạnh, vì trong cuộc bầu cử nầy, số người đắc cử không ngoài các lãnh tụ VM, những người thân VM, hoặc những người do VM chọn, như trường hợp cựu hoàng Bảo Đại. Lúc đó, VM buộc phải mở rộng quốc hội, thêm 70 đại biểu cho Việt Cách và Quốc Dân Đảng từ nước ngoài trở về, không thông qua bầu cử, như đã quy định trong cuộc họp ngày 23-12-1945. Như thế, tổng số đại biểu lên đến 403 người.

    Lời sử gia Trần Trọng Kim mô tả cuộc bầu cử: “Khi ấy tôi đã về ở Hà Nội rồi, thấy cuộc tuyển cử rất kỳ cục. Mỗi chỗ để bỏ phiếu, có một người của Việt Minh trông coi, họ gọi hết cả đàn ông, đàn bà đến bỏ phiếu, ai không biết chữ thì họ viết thay cho. Việt Minh đưa ra những bản kê tên những người họ đã định trước, rồi đọc những tên ấy lên và hỏi anh hay chị bầu cho ai? Người nào vô ý bầu cho một người nào khác, thì họ quát lên; “Sao không bầu cho những người này? Có phải phản đối không?” Người kia sợ mất vía nói: “Anh bảo tôi bầu cho ai, tôi xin bầu người ấy.” Cách cưỡng bách ra mặt như thế, lẽ dĩ nhiên những người Việt Minh đưa ra được đến tám chín mươi phần trăm số người đi bầu.” (Nguồn: Trần Trọng Kim, “Một Cơn Gió Bụi “)

    Quốc hội lập hiến họp kỳ thứ nhứt ngày 2-3-1946, cử ra Chính phủ Kháng Chiến do cựu hoàng Bảo Đại, nay là công dân Vĩnh Thụy làm cố vấn tối cao, và các chức vụ quan trọng là Hồ chí Minh (chủ tịch), Nguyễn Hải Thần (phó chủ tịch), Huỳnh Thúc Kháng (bộ trưởng Nội vụ), Nguyễn Tường Tam (bộ trưởng Ngoại giao), Phan Anh (bộ trưởng Quốc phòng). Đa số còn lại là bộ trưởng phe VM (cộng sản) và một số ít các đảng phái khác. Quân sự ủy viên hội vẫn là hai nhân vật chính là Võ Nguyên Giáp và Vũ Hồng Khanh. (Đây là chính phủ Liên hiệp Quốc – Cộng lần thứ hai sau 1945.)

  6. Lòng từ bi của người Việt quốc gia ? Sự ngây thơ của người Việt quốc gia !!!

    Trong cuốn “Lịch sử đấu tranh cận đại”, tác giả Hoàng Văn Đào thuật lại : Ngày 18/8/45 “Liên Minh Quốc Dân Đảng” có cuộc họp khẩn cấp.

    – Về phía Việt Nam Quốc Dân Đảng ( VNQDD) có Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Viễn, Lê Khang (tức Lê Ninh)…
    – Về phía Đại Việt Quốc Dân Đảng (DVQDD) có Trương Tử Anh, Phạm Khải Hoàn, Đồng Chí Kim …

    Vấn đề đoạt chính quyền ngay vào đêm hôm ấy được đề ra.

    ” Lãnh tụ Đại Việt Quốc Dân Đảng Trương Tử Anh, cũng là một trong 3 lãnh tụ tối cao của Liên Minh Đại Việt QDĐ và Việt Nam QDĐ đã bác bỏ lời khuyên của một chiến sĩ VNQDĐ khác là Lê Khang. Lê Khang đã đề nghị: Phải đoạt chính quyền ngay trong ngày 18-8 để loại Hồ chí Minh và bè lũ . Tuy nhiên , đề nghị của ông bị bác bỏ, Lê Khang và một số đồng chí VNQDĐ đã bỏ đi lên Vĩnh Yên lập chiến khu riêng. Về sau, Lê Khang đã bị CS giết, lãnh tụ Trương Tử Anh thì bị thủ tiêu bí mật, được ghi là mất tích.

    ” Hôm đó, các đồng chí ĐVQDĐ (Trương Tử Anh, Phạm Khải Hoàn, D/C Kim, MV) cho rằng: “Cuộc cách mạng nào cũng chỉ đi tới mục đích là giành lại độc lập cho Tổ quốc”. Thì dầu mặt trận Việt Minh hay đoàn thể nào cũng vậy. Việt Minh nắm được chính quyền, chúng ta sẽ tham gia hướng dẫn họ trên công cuộc phục vụ nhân dân; nếu họ trở mặt , lúc đó chúng ta sẽ lấy nhân dân làm hậu thuẫn mà hạ họ xuống. Vả lại lực lượng của họ có gì đáng cho chúng ta lo ngại? Nếu nay chúng ta dùng võ lực để đối phó trong lúc này ắt có cuộc lưu huyết! Cộng sản chưa thấy đâu mà đã thấy ngay dân chúng bị tàn sát. Sau đây lịch sử sẽ quy tội cho chúng ta là tham cầu địa vị, gây nên cảnh nồi da xáo thịt! Tội đó há riêng một cá nhân gánh chịu!”
    ( Trích )

    !!!

    • Lữ Giang – 18/08/2017 : ….Việt Minh nhảy lên cướp máy phóng thanh, biến cuộc biểu tình đó thành cuộc biểu tình của Việt Minh. Tối hôm đó, Đại Việt Quốc Gia Liên Minh họp khẩn cấp. Phía Việt Nam Quốc Dân Đảng có Chu Bá Phượng, Nguyễn Văn Viễn và Lê Khang. Phía Đại Việt Quốc Dân Đảng có Trương Tử Anh và Phạm Khải Hoàn. Đại Việt Quốc Dân Đảng cho rằng Việt Minh có cướp chính quyền thì cũng đi tới mục đích là giành độc lập cho quốc gia. Nhưng Lê Khang nói: “Thì ra đến giờ phút này mà các anh vẫn chưa hiểu rõ ‘Việt Minh cộng sản’ là thế nào cả, huống hồ là dân chúng!”.

    • Nghe na ná như ngày nay, có một số kẻ ở hải ngoại kêu gọi xóa bỏ hận thù, hòa giải với bọn CS Hà nội để cùng nhau chống Tàu cộng !!!

  7. Bài viết của linh mục Sử gia Nguyễn Phương , Giáo sư Sử Học tại Viện Đại Học Huế (1957-1975):

    “…Ở Phủ Chủ Tịch Nhà Nước, khi đối diện Hồ Chí Minh và nghe ông này đề nghị tham chính, cụ Diệm đã không ngần ngại nói:

    “- Không thể được, Ông có chính sách cứu nước của ông, và tôi có chính sách của tôi. Ông có cam đoan được rằng ông sẽ bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ ông đang thi hành thuyết đó. Họ giết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết cả anh em tôi”.

    “Đến đây Hồ Chí Minh cảm thấy phải chữa mình. Ông nói: “Vậy mà tôi không hay biết gì cả. Nước đang lâm cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp”.

    “Dường như cả hai người đều hiểu rằng chỉ có vì sợ cụ Diệm mới chấp nhận. Cụ lên tiếng: “Ông biết tôi là ai không?Tôi không phải hạng hèn nhát.” Hồ Chí Minh vội vàng nói đỡ: “Không. Ông không hề hèn nhát.” Cụ Diệm tiếp: “Vậy thì để cho tôi đi”.

  8. Năm 1945, khi ông Ngô Đình Diệm bị lọt vào tay Việt Minh. Hồ chí Minh dụ khị ông Diệm hợp tác nhưng bị từ chối ngay:

    Trích “Vietnam, a history “, một đoạn đối thoại giữa Hồ chí Minh và ông Diệm:

    Ông Diệm: Anh muốn gì ở tôi?
    Hồ Chí Minh: Tôi muốn ở anh điều anh luôn luôn muốn ở tôi – sự hợp tác của anh để giành độc lập. Chúng ta theo đuổi một điều giống nhau. Chúng ta phải chung sức với nhau.
    Ông Diệm: Anh là một kẻ tội phạm đã đốt cháy và hủy hoại đất nước, và anh lại còn bắt giam tôi.
    Hồ Chí Minh: Tôi xin lỗi anh vì sự cố không may ấy. Khi quần chúng bị áp bức nổi dậy, những sai lầm là điều không thể tránh khỏi và những thảm kịch đã xảy ra. Nhưng tôi luôn tin rằng hạnh phúc của nhân dân sẽ bù đắp được hết những sai lầm ấy. Anh thù hận chúng tôi nhưng chúng ta hãy quên chuyện ấy đi.
    Ông Diệm: Anh muốn tôi phải quên rằng những thuộc cấp của anh đã giết chết anh trai tôi?
    Hồ Chí Minh: Tôi chẳng biết gì hết về chuyện ấy. Tôi chẳng liên can gì đến cái chết của anh trai anh. Tôi cũng lấy làm tiếc về những điều thái quá ấy cũng giống như anh. Làm sao tôi có thể ra lệnh cho người ta làm việc ấy rồi giờ đây lại đưa anh tới đây? Không phải chỉ có vậy, tôi cho đưa anh tới đây để mời anh giữ một chức vụ quan trọng trong chính phủ của chúng tôi.
    Ông Diệm: Anh trai tôi và con trai của anh ấy chỉ là hai trong hàng trăm người đã bị giết và hàng trăm người nữa bị phản bội. Làm sao anh dám mời tôi hợp tác với anh?
    Hồ Chí Minh: Tâm trí của anh hướng về quá khứ. Anh hãy nghĩ đến tương lai – giáo dục, cải thiện mức sống của người dân.
    Ông Diệm: Anh nói mà không biết suy nghĩ. Tôi đấu tranh cho lợi ích của đất nước, nhưng tôi không thể bị chi phối bởi áp lực. Tôi là một người tự do.Tôi sẽ mãi mãi là một người tự do. Anh hãy nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi có phải là một người sợ áp bức hay sợ chết không?
    Hồ Chí Minh: Anh là một người tự do.”

  9. Đọc bài viết của sử gia Trần Trọng Kim về cái gọi là Chính phủ Liên Hiệp dưới thời Hồ chí Minh thì rõ ra là một số các đảng phái quốc gia có máu “xôi thịt” thấy Hồ chí Minh nhử mồi đề nghị chia chác quyền hành là hợp tác ngay với tên CS quốc tế Hồ chí Minh :

    Sử gia Trần Trọng Kim: “…Trước Việt Minh đã định lấy có 300 ghế đại biểu, sau họ muốn làm cho êm dư luận nên lấy thêm 70 ghế nữa, cho Việt Nam Quốc Dân Ðảng được 50 ghế và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội được 20 ghế để hai đảng ấy tự cử người mình ra .
    “Chính phủ liên hiệp quốc gia thành lập như sau:
    Hồ Chí Minh, cộng sản, làm chủ tịch
    Nguyễn Hải Thần, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, phó chủ tịch
    Huỳnh Thúc Kháng, không đảng phái,
    “bộ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Tường Tam, Ðại Việt dân chính, bộ trưởng bộ ngoại giao Phan Anh, không đảng phái, bộ trưởng bộ quốc phòng Vũ Ðình Hòe, Xã hội dân chủ đảng, bộ trưởng bộ tư pháp Ðặng Thái Mai, cộng sản, bộ trưởng bộ giáo dục Lê Văn Hiến, cộng sản, bộ trưởng bộ tài chính Trần Ðăng Khoa, Dân chủ đảng, bộ trưởng bộ công chánh Chu Bá Phượng, Dân chủ đảng, bộ trưởng bộ kinh tế Trương Ðình Chi, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, bộ trưởng bộ xã hội y tế Bồ Xuân Luật, Việt Nam Cách mệnh Ðồng minh hội, ….

    “Xét thành phần chính phủ liên hiệp lúc ấy, kể cả những người không đảng phái, có thể gọi là năm đảng nhưng chỉ có đảng Việt Minh cộng sản là có chương trình chính trị rõ ràng và có thế lực hơn cả. Còn các đảng khác thì chỉ có tên nêu ra mà thôi, chứ không có chương trình phân minh. Xã hội đảng và Dân chủ đảng là những đảng phụ thuộc của Việt Minh và không có thế lực gì. Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội tuy có thế lực là nhờ có quân đội Tàu bênh vực, nhưng không có tính cách thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ. Bởi vậy đảng Cộng sản chỉ có ba người trong chính phủ nhưng quyền bính vẫn ở cả Cộng sản.
    “Theo chính sách của Việt Minh, lập ra một chính phủ, đem những người các đảng phái hay không đảng phái vào làm bộ trưởng là cốt làm cái bình phong che mắt người ngoài, chứ không có thực quyền làm được việc gì cả.
    Khi tôi còn ở Hà Nội, cụ Huỳnh Thúc Kháng ra nhận chức bộ trưởng bộ nội vụ, có đến thăm tôi. Ngồi nói chuyện, tôi hỏi:
    “Cụ nay đứng đầu một bộ rất quan trọng trong chính phủ, chắc là bận việc lắm”. Cụ Huỳnh nói: “Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi”.
    „Những khi có hội đồng chính phủ thì bàn định những gì?“
    „Cũng chưa thấy có việc gì, thường thì họ đem những việc họ đã làm rồi nói cho chúng tôi biết.“
    Xem như thế thì các ông bộ trưởng chỉ đứng để làm vị mà thôi, chứ không có quyền quyết định gì cả.
    Có người hỏi ông Nguyễn Tường Tam rằng: “Khi ông nhận chức bộ trưởng bộ ngoại giao của cụ Hồ giữ trước, ông thấy có việc gì quan trọng lắm không?” Ông trả lời: “Tất cả giấy má trong bộ ngoại giao của cụ Hồ giao lại cho tôi, tôi chỉ thấy có ba lá đơn của mấy người sĩ quan Tàu nhờ tìm cho mấy cái nhà, và tìm cái ví đựng tiền bị kẻ cắp lấy mất”.
    Câu chuyện có thể là ông Tam nói khôi hài, nhưng đủ rõ việc các ông bộ trưởng không có gì. Tôi đem những câu chuyện đó nói ra đây để chứng thực là các bộ trưởng chỉ giữ hư vị chứ không có thực quyền. Cái thực quyền trong chính phủ lúc ấy là ở mấy người như ông Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và ở tổng bộ cộng sản điều khiển hết cả “.

    • Dùng chính phủ Liên hiệp làm cái bình phong, bọn Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp ra sức tiêu diệt, thủ tiêu những người quốc gia:

      Sử gia Vũ Ngự Chiêu, trong tác phẩm Các Vua Cuối Nhà Nguyễn đã gọi là “Thời của những đồ tể”. Ông viết như sau: “Khí thế Việt Minh tỏa rộng nhanh khắp ba kỳ, đánh dấu “thời của những đồ tể”. Cảnh cắt tiết, mổ bụng, khoét mắt, buộc đá ném xuống sông các nạn nhân (mò tôm) lan tràn, gây hoảng sợ và căm phẫn trong nhiều giai tầng xã hội “.

      Tác giả Phạm Văn Liễu quyển Trả Ta Sông Núi đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau:“… những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê .

      Tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn đời Chạy Giặc : “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”.

      Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những Ngày Qua đã viết như sau: “Cộng sản sau đó đã khủng bố dữ dội các tín đồ Phật giáo Hoà Hảo vùng Long Xuyên, Châu Đốc, Trà Vinh, Sa Đéc… Hơn 10 ngàn người đã bị giết và chôn tập thể ở các cánh đồng xa xôi trong Đồng Tháp Mười “ .

      …..

    • Không biết ông Diệm lúc đó có coi khinh đám đảng phái xôi thịt hay không ? Cũng như người Việt hải ngoại nhiều năm về trước đã từng coi khinh Nguyễn cao Kỳ, Đỗ Mậu, các nghệ sĩ Phạm Duy, Elvis Phương, Duy Quang, Hương Lan….được giặc cho về nước làm ăn

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên