
Tuần qua, tôi đi Lubbock tham dự một hội nghị dịp kỷ niệm ngày 30/4. Khi máy bay gần đến Denver, nhìn qua cửa sổ tôi thấy một mầu tuyết trắng.
Tuyết tháng Tư làm tôi nhớ trong sách sử về chiến tranh Việt Nam có ghi lại sự kiện là vào sáng ngày 29/4/1975 trên sóng phát thanh FM ở Sài Gòn phát đi một bài nhạc Mỹ: “I’m dreaming of a white Christmas…” (Tôi đang mơ một Giáng Sinh tuyết trắng) mà tôi có biết gì đâu và chỉ nhớ ngày hôm sau, đang lênh đênh trên biển thì nghe tiếng rè rè trên đài Sài Gòn là lệnh đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh, rồi lời ca quen thuộc: “Rừng núi giang tay nối lại biển xa…” và bỗng dưng nước mắt tuôn trào.
Cuối tháng Tư Sài Gòn nóng đổ lửa, phượng bừng nở báo tin mùa hè sắp đến, nhưng ca khúc về mùa đông được đài FM phát đi phát lại là hiệu lệnh cho tất cả người Mỹ biết cuộc di tản khỏi Việt Nam đã bắt đầu.
Trưa ngày hôm sau, trên đài Sài Gòn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đưa ra kêu gọi mọi người ở lại góp tay xây dựng trong hoà bình. Ông cất tiếng ca mộc mạc, không đàn trống: “Mặt đất bao la anh em ta về gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng, trời rộng bàn tay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam…”
Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm đứt. Quê hương đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược.
Rồi chuyện gì đã xảy ra sau ngày 30-4 năm đó, ở Việt Nam và ở hải ngoại? Đó là chủ đề của hội thảo 1975: The End of the Vietnam War (1975: Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam), tổ chức tại Đại học Texas Tech từ ngày 10 đến 13-4 vừa qua.
Dù cuộc chiến đã chấm dứt tại mốc thời gian 30/4/1975, sau nửa thế kỷ hai tiếng “Việt Nam” vẫn còn được nhiều người từ hai bên bờ Thái Bình Dương tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu. Họ là những học giả, sinh viên; những cựu chiến binh, nhà báo, nhà văn, nhạc sĩ; những người làm từ thiện, hoạt động cộng đồng đã trình bày công trình học thuật hay chia sẻ kinh nghiệm trong 30 buổi thảo luận.
Về trải nghiệm của những người lính Mỹ ở Củ Chi là bài của Paloma Guerra, về tù binh Mỹ là bài của Brian Washam. Oscar Coles nói về những gì bộ đội mang theo khi vào nam chiến đấu, trong đó có báo Trường Sơn. Uyên Nguyễn nói về lực lượng Địa Phương Quân của Việt Nam Cộng hoà.
George “Jay” Veith nhìn lại chiến dịch quân sự của Hà Nội trong tháng Ba và tháng Tư trước khi bộ đội cộng sản tiến vào Sài Gòn. John F. Burn nói về chiến dịch Operation Frequent Wind (Chiến dịch gió lốc) di tản người Mỹ và người Việt ra khỏi Việt Nam.
Trong khi Chương Đỗ và Chu Đỗ kể lại kinh nghiệm trong hành trình rời Việt Nam vào cuối tháng 4-1975. Miguel Lechuga nói về thành công và thất bại trong việc di tản trẻ em trong chiến dịch Operation Babylift (Chiến dịch di tản trẻ em).
Sau di tản tháng 4-75 và vài tháng qua các trại tị nạn, 120 nghìn người Việt đã được Hoa Kỳ nhận cho định cư và cộng đồng người Việt tại Mỹ hình thành từ đó.
Tại hội thảo có Hải Cao, Steve Potts và Nghĩa M. Võ nói về những nỗ lực vươn lên của người tị nạn trên đất mới, từ California qua Georgia, Minnesota.
Sau cuộc chiến, nhiều vấn đề còn tồn tại và phải mất nhiều năm mới có tiến triển. Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, được mở ra năm 1995, là bài nói chuyện của Mã Y Vân, sinh viên Đại học Fulbright Vietnam.
Amanda C. Demmer, tác giả của After Saigon’s Fall: A 50-Year Retrospective (Sau khi Sài Gòn sụp đổ: nhìn lại 50 năm), ghi nhận những khó khăn và thành quả trong quan hệ Mỹ-Việt, từ POW-MIAs đến tù cải tạo Việt Nam Cộng Hoà, H.O., con lai; từ nhân quyền đến thuyền nhân vượt biển, xử lí chất độc da cam.
Andrew Wells-Dang, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, làm việc cho United States Institute for Peace (Viện Hoa Kỳ vì Hoà bình) vừa bị chính quyền Donald Trump dẹp bỏ, nói đến quyền lợi quốc gia của hai nước trong việc xây dựng quan hệ là dựa trên lòng tin và sự tôn trọng thể chế của nhau. Ông nói đến những trợ giúp mà Hoa Kỳ dành cho Việt Nam qua các dự án được tài trợ bởi USAID, nay bị cắt cùng với các chương trình Việt ngữ của đài VOA, RFA sẽ làm Hoa Kỳ mất ảnh hưởng trong khu vực Đông Nam Á.

Việt Nam hậu chiến tranh là những chính sách cai trị đầy bạo lực do Alex-Thái Đình Võ, Đại học Texas Tech, trình bày. Bài về lịch sử của Điều 4 Hiến Pháp là của Alec Holcome, Đại học Ohio. Cody J. Billock nói về Huế những tháng ngày sau khi được giải phóng, trong đó đề cập đến những người con của Huế như Nhã Ca, Trịnh Công Sơn, Phan Nhật Nam, Giám mục Nguyễn Kim Điền, linh mục Nguyễn Văn Lý, người bị giam tù, người không còn được tự do sáng tác.
Tường Vũ, Đại học Oregon, nói về chính sách đàn áp sắt máu của Hà Nội qua vụ án Vinh Sơn, vụ án dòng Đồng Công. Tuấn Hoàng, Đại học Pepperdine, bàn về sinh hoạt và phát triển của giáo hội công giáo. Trinh Lưu nghiên cứu về các chính sách tiêu diệt văn hoá miền Nam sau 1975.
Hệ luỵ của chiến tranh có bài nói chuyện của Diane Fox về chất mầu da cam, bài của Michael Peavey Đỗ nhắc đến vết thương không lành của những ai từng bị bắt đi học tập cải tạo.
Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà ngày trước, nay là Nghĩa trang Nhân dân Bình An, được ba sinh viên tuổi đôi mươi tìm hiểu, hai từ trong nước và một tại Hoa Kỳ, là Trần Nguyễn Phương Thảo, Tạ Bảo Long từ Đại học Fulbright Vietnam và Tiana Dương từ Đại học Dartmouth. Theo các em, việc ra vào nghĩa trang còn giới hạn và khi gặp người đi thăm, hỏi chuyện thì hầu hết không muốn trả lời vì sợ bị phiền phức. Chỉ có một cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, tuổi đã 80 đang làm công việc chăm sóc các ngôi mộ trong nhiều năm qua là đồng ý cho các em phỏng vấn, quay phim.
Về cộng đồng người Mỹ gốc Việt, sự định hình đặc tính bảo thủ và chống cộng sản được nghiên cứu bởi Ý Nguyễn từ Đại học California, Dominguez Hills; Erica Allen-Kim, Đại học Toronto, nói về sự hình thành của những khu Little Saigon.
Sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật trước và sau 1975 cũng là đề tài của nhiều bài nói chuyện. Jason Nguyễn, Đại học Cerritos, so sánh âm nhạc miền nam trước và sau năm 1975; Phú Vũ từ trường St. Peter Claver phân tích nhạc miền bắc và miền nam, Nữ-Anh Trần, Đại học Connecticut, bàn về văn học hậu chiến.

(Ảnh: Bùi Văn Phú)
Trong hội thảo về nhân quyền, tác giả bài viết này đã nói về những tù nhân lương tâm trong 50 năm qua, từ Nhã Ca, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Đan Quế, Đoàn Thanh Liêm, Đoàn Viết Hoạt đến Lê Quốc Quân, Phạm Đoan Trang, Huy Đức, Nguyễn Sơn Lộ và những nỗ lực của người Việt hải ngoại để cải tiến tình hình nhân quyền ở đó. Huỳnh Lương Thiện, chủ nhiệm tuần báo Mõ-SF, trình bày việc dùng truyền thông báo chí để dân chúng Mỹ biết về những vi phạm nhân quyền của Hà Nội. Nguyễn Minh Huy là ca nhạc sĩ đấu tranh, cùng Lê Diễm Chi Huệ và Phong trào Hưng Ca đã đem tiếng hát đến nhiều nơi vận động cho nhân quyền tại quê nhà. Hôm nay chúng tôi đồng ca vài bài nhạc đấu tranh, trong đó có Em vẫn mơ một ngày về của Nguyệt Ánh.
Nhiều người trẻ thuộc thế hệ 1.5 và thế hệ thứ 2 đã đến với hội nghị vì quan tâm đến Việt Nam, muốn hiểu hơn về cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Họ đã hoặc đang theo học khoa lịch sử, xã hội, nhân văn có liên quan đến đất nước, con người Việt Nam như Nguyễn Hồng Uyên, Trinh Lưu, Tiana Dương, Nguyễn Hoàng Thuỵ Kha, Christina Võ, Evyn Espiritu-Gandhi, Nguyễn Thị Kim Hoa, Tạ Bảo Long, Trần Nguyễn Phương Thảo, Mã Y Vân.

Đặc biệt tôi đã thấy có cả bố và con cùng đi tham dự hội thảo. Chương Đỗ và Chu Đỗ chia sẻ trải nghiệm về hành trình thoát khỏi Việt Nam vào tháng 4-1975. Nghĩa M. Võ và Christina Võ có những khác biệt trong cách nhìn về quê hương Việt Nam, cha bỏ đi vào tháng 4-1975 trong ngậm ngùi, đã viết nhiều sách về thuyền nhân, về trại học tập cải tạo, trong khi cô con gái đến Việt Nam thì tìm thấy cội nguồn, không như hình ảnh quê hương trong tâm trí của người cha, như Christina đã viết trong tác phẩm My Vietnam, Your Vietnam mà hai bố con là đồng tác giả, được Kalynh Ngô dịch ra tiếng Việt là Việt Nam của con, Việt Nam của cha.

Sôi sục trong lòng một số người Việt tham dự hội thảo, nhưng giữ yên lặng, là lúc Lệ Lý Hayslip nói chuyện trong bữa ăn tối thứ Sáu 12/4. Tác giả của When Heaven and Earth Changed Places (Khi đất trời đổi ngôi), đã được Oliver Stone chuyển thành phim, kể chuyện về đời mình, gốc Quảng Nam, gia đình theo cộng sản và bà đã bị hãm hiếp, có con rơi, qua Mỹ từ năm 1970. Bà kể là bị người Việt ở Dallas chống đối vì cho rằng bà ủng hộ chế độ cộng sản. Khoảng 20 người Việt lặng lẽ rời phòng ăn để phản đối. Bài nói chuyện, chính ra là hỏi đáp, tâm tình cùng Nguyễn Hồng Uyên, nhưng mới câu hỏi đầu bà đã nói liên tục hơn 20 phút. Bà khóc cho số phận của mình, khiến cho cô Uyên cũng bật khóc theo.
Người Việt phản đối vì Lệ Lý nói về yêu thương, tha thứ, hoà giải mà không hề nhắc đến thuyền nhân, trong đó có nhiều người cũng bị hãm hiếp; không hề nhắc đến bao người đã bị giam trong các trại học tập cải tạo. Như Hà Nội cũng chưa bao giờ nhắc đến những thảm cảnh này.
Nước mắt cũng đã rơi trong hội thảo khi nhà văn Andrew Lâm nói về thân phụ, Trung tướng Lâm Quang Thi, mà lúc ông mất thì Andrew bị kẹt ở Việt Nam vì Covid-19. Tướng Thi viết hai tác phẩm Twenty-Five-Year Century (Một thế kỷ 25 năm) và Hell in An Lộc (Địa ngục An Lộc) là để hoá giải dư luận xấu mà truyền thông Mỹ đã viết về Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Andrew kể rằng khi nhận tin Hell in An Lộc được nhà xuất bản cho phát hành, cha ông đã bật khóc, vì xem như những gì ông muốn để lại cho các cháu của ông và cho thế hệ mai sau, ông đã hoàn tất.
Trong cùng buổi thảo luận với Andrew Lâm, có hai diễn giả cũng nói về người thân của họ là các tướng, tá của Việt Nam Cộng Hoà. Evyn Espiritu-Gandhi, Đại học UCLA, nói về Ông Hai, tức Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, người đã bị cộng sản xử bắn vì không chịu đầu hàng.
Nhà văn Zora Mai Quỳnh nói về bác của cô là Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan mà bức hình do Eddie Adams chụp năm 1968 khi ông xử bắn tại chỗ một tên Việt Cộng đã gây chấn động thế giới, mà mấy ai biết được chỉ ít phút trước đó tên du kích này đã giết cả một gia đình 7 người. Đó là những thiên lệch của truyền thông Mỹ. Zora nói ở Việt Nam, không lâu trước đây, khi một cụ già trên 80 tuổi, bị công an tấn công vào nhà, bắn chết bằng loạt đạn, mà có báo đài nào đưa tin.
Nhìn lại cuộc chiến và hệ luỵ của nó, câu hỏi đã được Tường Vũ, Đại học Oregon, đặt ra trong một buổi thảo luận là “Ai đã giải phóng ai?” Đó cũng là một luận đề sẽ còn tiếp tục được bàn luận trong tương lai.
Về những thay đổi lãnh đạo gần đây ở Ba Đình, Stephen Young, tác giả của Kissinger’s Betrayal (Sự phản bội của Kissinger), trong một buổi thảo luận có góp ý, nói đến bài viết cách đây vài ngày của Tổng Bí thư Tô Lâm, trong đó không nhắc gì đến chủ nghĩa Mác-Lênin hay chủ nghĩa xã hội. Sự kiện này cho ông lạc quan về những thay đổi sắp có từ Hà Nội.
Phản biện lại, George “Jay” Veith, cũng là một học giả về Việt Nam với những tác phẩm như Black April: The Fall of South Vietnam (Tháng Tư đen: Sự sụp đổ của Nam Việt Nam) và Peace, POWs and Power (Hoà bình, Tù binh và Quyền lực), đã gặp Tô Lâm nhiều lần nhưng không tin ông tổng bí thư sẽ đem lại những cải cách, vì là gốc công an, chỉ khéo che đậy sự độc tài.
Từ khi có Vietnam Center, do cựu sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ James Reckner (1940-2018) sáng lập tại Đại học Texas Tech cách đây hơn 30 năm, mỗi năm ở đây đều có tổ chức hội thảo về Việt Nam. Những hội thảo đầu tiên thường chú trọng đến quân sử Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà. Sau khi thiết lập bang giao Mỹ-Việt năm 1995 thì bắt đầu có những cấp chỉ huy Quân đội Nhân dân và những nhà nghiên cứu từ Việt Nam tham gia hội thảo.
Cùng lúc có nhiều người tốt nghiệp tiến sĩ chuyên ngành liên quan đến Việt Nam, đến người Việt tị nạn. Trong vòng 20 năm qua đã có nhiều nghiên cứu hơn về Việt Nam Cộng hoà, về người Việt ở Mỹ cũng như nhiều nơi trên thế giới.
Vietnam Center tại Đại học Texas Tech là nơi có Vietnam Archive lưu trữ hơn 30 triệu trang tài liệu và cả vạn di vật liên quan đến cuộc chiến và người Việt, trong đó có nhiều tài liệu mà học giả Douglas Pike (1924-2002) tác giả của tác phẩm Việt Cộng đã thu thập được. Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là một trong những di vật được tìm ra ở đây.
Nơi đây cũng lưu trữ toàn bộ hồ sơ liên quan đến chương trình H.O. do bà Khúc Minh Thơ hiến tặng.

Dự hội thảo năm nay, nhiều người đã được bà Sheon Montgomery, phụ trách tham khảo của văn khố, và giáo sư Alex-Thái Đình Võ hướng dẫn đi thăm Vietnam Archive để thấy nơi đây có nguồn tài liệu phong phú cho các nghiên cứu. Đi qua những kệ sách, tủ tài liệu, báo chí, kệ di vật thấy có Công báo Việt Nam Cộng Hoà, báo Thái Bình, báo Kháng Chiến, nón bộ đội, nón lá, cờ Việt Nam Cộng hoà, có hình Hồ Chí Minh.

Tôi thấy tấm bích chương quảng cáo cho triển lãm về chiến tranh Việt Nam tại Bảo tàng Oakland năm 2005 mà tôi đã cùng người Việt vùng Vịnh San Francisco phản đối ban tổ chức vì triển lãm về chiến tranh Việt Nam mà không có nhắc đến hệ luỵ của nó, là người Việt tị nạn tại Mỹ. Cuối cùng thì hình ảnh, di vật của người tù cải tạo, của người vượt biển, những sinh hoạt chống cộng sản của người Việt đã được đem vào cuộc triển lãm.
Bà Sheon nhắc nhở chúng tôi cần lưu giữ những di sản của gia đình vì bản gốc luôn có giá trị cho văn khố. Vì di vật chính là câu chuyện riêng của một người, của một gia đình. Không nhất thiết phải là người có địa vị hay chức quyền.
Kết thúc hội thảo, giáo sư Stephen Maxner, giám đốc Vietnam Center, cám ơn 70 diễn giả đã đóng góp tham luận và hơn một trăm khách đã tham dự để chương trình phong phú và thành công. Ông loan báo, vào tháng 6 sang năm hội thảo sẽ được tổ chức tại Việt Nam.
Việc này dễ hay khó, vì trong một buổi thảo luận trước đó đã có người nêu vấn đề là tại Việt Nam thì người tham dự có được tự do trình bày nghiên cứu, tranh luận, đặt câu hỏi như trong môi trường đại học ở Mỹ hay không.
Hy vọng đến khi đó Việt Nam sẽ có tự do học thuật. Mấy tuần trước, một thành viên Bộ Chính trị đã gặp gỡ một số trí thức tại Sài Gòn để nói chuyện, trong đó có chủ đề tự trị đại học. Liệu đó có phải là chỉ dấu của thay đổi?
Tác giả Bùi Văn Phú là giảng viên đại học cộng đồng và là nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco
Bàn tay Mỹ cô lập cấp chỉ huy của QL VNCH để CSVN dễ dàng nuốt chửng miền Nam !
(Trích) “Trung tướng KQ Trần Văn Minh: Gần trưa ngày 29 tháng Tư, tôi nhận một cuộc điện gọi từ cơ quan DAO nói rằng sẽ có một cuộc họp giữa Mỹ và các cấp chỉ huy của Vietnam Air Force (VNAF). Tôi qua cơ qua DAO với nhiều người nữa. Chúng tôi được đưa vào một gian phòng. Rồi người ta để chúng tôi ngồi đó một lúc lâu. Chúng tôi nghĩ Đại sứ Martin hoặc Tướng Homer Smith (tùy viên quân sự) hoặc ai đó sẽ thuyết trình một kế hoạch đẩy lui Cộng quân. Nhưng chẳng có ai thuyết trình cả. Không có ai thuyết trình cho tới xế trưa. Sau khi chúng tôi đi vào khu vực cơ quan DAO thì một người lính gác đã tước vũ khí của chúng tôi. Điều này chưa bao giờ xảy ra trước đó. Rồi cuối cùng cũng có một người, mặc đồ sĩ quan, bước vào phòng và nói, “Đã kết thúc rồi, Thưa tướng Minh. Một trực thăng đang đợi ngoài kia sẽ đưa ông đi”. Chúng tôi bước ra chiếc trực thăng. Nó đưa chúng tôi bay ra chiếc Blue Ridge ngoài biển Đông “.
Nhà biên khảo Bùi Anh Trinh : …Thiệu bắt được bản sơ thảo Hiệp định của Kissinger và Lê Đức Thọ
Năm 1972, ngày 17-10,quân đội VNCH hành quân tại Quảng Tín đã tịch thu được một bản tài liệu mang tên “Chỉ dẫn tổng quát về ngưng chiến” của CSVN. Ngay tức khắc, bản tài liệu được chuyển tiếp bằng máy bay trực thăng tới tay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào lúc nửa đêm.
Thiệu đọc và phát hiện ra lâu nay Đại sứ Bunker đã cho ông những thông tin ảo về những thỏa thuận giữa Kissinger và Lê Đức Thọ tại Paris. Ông cay đắng nhận ra rằng từ trước tới nay Kissinger đã điều đình với Lê Đức Thọ mà không thèm đếm xỉa tới ý kiến của Chính phủ VNCH cũng như không cần để ý tới quyền lợi của nhân dân Miền Nam.
Những gì mà Đại sứ Bunker trình bày với ông về những điều khoản thương lượng tại Paris chỉ là những lời lừa phỉnh như đối với trẻ con. Kể từ lúc này, dưới con mắt của Tổng thống Thiệu thì Bunker là một tay lừa đảo ( Trong khi sự thực Bunker đã bị Kissinger lừa chứ ông ta cũng chẳng biết gì hơn ).
Tổng thống Thiệu lập tức mời một số nhân vật chính trong chính phủ họp bàn về sự phản bội của Hoa Kỳ và tìm cách đối đầu với Kissinger trong chuyến viếng thăm sắp tới của ông ta.
Từ Chiến Trường Khe Sanh đến Chiến Dịch Tết Mậu Thân – Phan Đức Minh:
Từ ngày 1 đến 7 – 12 – 1967 : Cảnh sát theo dõi và bắt được Nguyễn văn Huân , một cán bộ cao cấp, đại diện cuả Việt Cộng, từ vùng chiến khu vào, được CIA xếp đặt cho gặp Đại sứ Mỹ Bunker để tính chuyện làm cuộc “ đi đêm – Furtive agreement “ cho vấn đề Nam Việt Nam, giưã Mỹ và Cộng sản. Chính giới Nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích dữ dội Hoa Kỳ âm mưu phản bội người bạn đồng minh để đi đêm riêng lẻ và trực tiếp với cộng sản.
(Phan Đức Minh: Thiếu tá Uỷ viên chính phủ Tòa Án Quân Sự Quân Khu 4)
Mỹ đã bí mật giao cho CS danh sách những người Việt cộng tác với CIA để cho CS biết trước mà đối phó ???
(Trích ) Năm 1977, cựu chiến lược gia trưởng của CIA tại Việt Nam Frank Snepp đã xuất bản cuốn hồi ký “Decent Interval”, tiết lộ rằng một số các tài liệu nhạy cảm đã bị bỏ lại trong cuộc vội vã rời Sài Gòn. Ông cho biết những người cộng tác với CIA đã được nêu tên trong hồ sơ. Ông nói, nhiều người trong số họ đã được đưa vào “những trại cải tạo”, và không thể biết có bao nhiêu người đã bị giết. Snepp nói,
“Chẳng có ích gì để thử và đi tìm ra hoặc đo lường bi kịch đó bằng những con số. Một người Việt Nam mất mạng vì chúng tôi bỏ lại một bí mật sau lưng là tất cả những gì bạn cần biết về sự phản bội.”
CƯỚP HOÀI XIẾT HỌNG CẢ NƯỚC VIỆT NAM (CH XH CN VN)
Đại láo + Tà dâm + Ác nhân + Hết phước (Đl + Td + Ácn + Hp)
Namôh !
Kcướp đoạt Miền Nam Tự dro…, chrúng ta kcùng kcuyết tiến bước kướp, cướp… kcướp fá !
Môh fẹt !
Như kcó (b)ác Hồ chrong nghày drzui ĐẠI KCƯỚP !!!
Môh fẹc !
“Đánh chro Mĩy kcút-Nghụy nhào ;
Để drước Tàu kcộng chràn drzào biển Đông ?!
Đánh chro Mĩy kút-Nghụy dzrông ;
Để chro Tàu kcộng… Á Đông tung ghoành ?!“
TT Thiệu khi cuối cùng được Kissinger trình bày cho biết rằng Bắc Việt sẽ được- trong khi Mỹ sẽ rút hết quân tác chiến – ỡ lại trong lãnh thổ VNCH hơn 300,000 quân chính quy với đầy đủ súng ống, đàn dược, thì TT Thiệu mới tá hỏa.
Ban đầu TT Thiệu khăng khăng đòi Nixon hủy bỏ điều khoản chết người này, nhưng sau khi bị Nixon đe dọa Mỹ sẽ cúp viện trợ và TT Thiệu có thể sẽ có cái chết bi thảm như TT Diệm, thì TT Thiệu mới đành phải ký Hiệp Định Ba Lê .
Sau Hiệp Định Ba Lê thì 300,000 bộ đội này cộng thêm với quân tăng viện từ ngoài Bắc vào tấn công VNCH, thêm nữa là viện trợ Mỹ cho VNCH bị cắt giảm trầm trọng khiến cho VNCH cuối cùng bị xóa tên trên bản đồ thế giới .
Sử gia Trần Gia Phụng: Sau hiệp định Paris, NVN một mình can đảm tiếp tục chiến đấu chống lại cả khối CS đang dồn sức cho BVN tấn công NVN, thì bộ trưởng Ngoại giao của Hoa Kỳ là Henry Kissinger lại còn trù ẻo NVN:
“Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.”
(Lời của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật lại trong sách “It Sure Looks Different from the Inside “. TS Nguyễn Tiến Hưng trích dẫn, “Hồ sơ mật dinh Độc Lập” )
Nguyễn Kỳ Phong – Tác giả của bốn cuốn sách viết về Việt Nam :
“…Trong hai tháng cuối cùng năm 1972, TT Thiệu, đã nói thẳng vào mặt Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, là “Tại sao tôi phải tin ông?”, “…Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi” .
“… Hiệp Ðịnh Ba lê 1973 vẫn không được chánh phủ Hoa Kỳ đưa ra Quốc Hội để phê chuẩn. TT Nixon đã không nhiệt tâm hay không muốn cho Quốc Hội Hoa Kỳ thấy nội dung và những chi tiết của bản Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973.
“Sau này khi VNCH thất thủ, Quốc Hội nói họ không có trách nhiệm vì họ không biết gì về nội dung bản hiệp ước. Về phía Hành Pháp, ông tân Tổng Thống Gerald Ford thì lại càng có lý do hơn, khi nói ông hoàn toàn không biết gì về những hứa hẹn giữa chánh phủ trước (chánh phủ Nixon) và VNCH …” .
thằng hcm đừng vì ganh ghét mà phỏng dái thì còn một nửa nước hạnh phúc thay vì cả nước đau khổ như hiện nay – đại khái là thế
Sài Gòn tưởng phen này lên dzoi
ai ngờ VC chơi xỏ cho xuống chó !
“quận 1 sáp nhập từ 10 phường còn 4 phường với tên gọi phường Tân Định, Sài Gòn, Bến Thành, Cầu Ông Lãnh.”(trích báo VC.)
Dât Mít đặc nên ăn mừng vì tên Sài Gòn còn được VC giữ lại là may lắm rùi. Tên Sài Gòn ngang với tên Cầu Ông Lãnh à nha. Mít đặc ơi là Mít dặc ngu ơi là ngu ! Ngu quá ! Ha ha ha !!!
Đừng quên mời Mỹ tham dự ngồi ở ghế hàng đầu “Danh Dự” trong ngày “diễu binh” tổ chức trọng đại ngày 30 tháng 4 năm 1975 vì sự thật nếu không nhờ có Mỹ phản bội lại người đồng minh VNCH tại miền Nam trong cái gọi là Hòa “Đờm” Ba Lê năm 1973 thì ngày “diễu binh” 30 tháng 4 năm 1975 sẻ không bao giờ có thể có được,đó là điều chắc chắn 100% mà cả thế giới đều nhận xét.
Đúng . CSVN phải dựng tượng Nixon và Kissinger từ Hà nội, Huế và Sài gòn .
***Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu, năm 1979 đã trả lời cuộc phỏng vấn của tạp chí Đức German weekly Der Spiegelve, trong đó có vấn đề bị Nixon- Kissinger ép buộc phải ký Hiệp Định Paris, theo đó CSBV được giữ nguyên toàn bộ trên 300,000 quân được tiếp tục ở lại trong Nam trong khi toàn bộ quân chiến đấu Mỹ rút hết về nước.
(Trích đoạn )
Nguyễn Văn Thiệu: Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết.
……..
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?”
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
……..
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một “thỏa thuận danh dự”. Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: “Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ.” Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: “Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”
…….
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt.”
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là Hòa Bình Của Nấm Mồ “.
“…Họp Hội Đồng Nội Các trong Bạch Cung ngày hôm sau, Kissinger báo cáo: “Lúc này toàn thể quân đội Bắc Việt đang ở trong Nam. Chỉ một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng có thể chiếm được Bắc Việt. Hiệp định Ba Lê đã bị vi phạm một cách nghiêm trọng!”
“…During the Cabinet meeting on the next day in the White House, Kissinger reported: “At this moment, all the North Vietnam’s Army are in the South … We only need a brigate of Marine to conquer the North. The Paris Peace Accords have been severely violated!”
Sử gia Larry Berman – ” No Peace, No Honor : Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam “
*BBC- May 31, 16- Một phóng sự điều tra trên New York Times cách đây nhiều năm từng dẫn lời cựu sỹ quan quân đội Hoa Kỳ nói trước mùa hè năm 1968 binh lính chỉ được nổ súng khi bị bắn.
Tuy nhiên sau đó họ đã được quân đội cho phép nổ súng khi cảm thấy bị đe dọa.
*Nhà văn Dương thu Hương – – nữ văn sĩ miền Bắc theo đoàn quân của CS Bắc Việt vào Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975. Có 6 tác phẩm được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức-
:” So với tội đem bom đạn và thuốc khai quang của đế quốc Mỹ đổ xuống nước Việt Nam thì tội phá nát sơn hà Việt Nam của Hồ chí Minh còn nặng gấp ngàn lần”.
* “7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin” diệt cỏ, phát quang của Mỹ không nhắm vào dân thường mà nhắm vào nơi ẩn trú của Việt Cộng. Có thể nó để lại di hại cho môi trường nhưng không quá bị thổi phồng như bộ máy tuyên truyền của cộng sản. Tôi đã vào sống trong Nam và đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy màu xanh cây lá. Những đám rừng bị chất độc da cam xa lắc lơ đâu đó tôi không có cơ hội nhìn thấy.
“Còn nạn phá rừng giờ đây khủng khiếp hơn nhiều. Bọn cơ hội bắt tay với các quan chức cộng sản phá rừng, lấy gỗ làm giàu, mà Trầm Bê hay Cường Đô La là những ví dụ. Thực phẩm độc hại mà dân Việt dùng hôm nay, chủ yếu từ Trung Quốc, công khai huỷ diệt nòi giống Việt, làm cho bệnh ung thư của Việt Nam ở vị trí cao nhất thế giới và mỗi năm chết khoảng 75 ngàn người, man rợ và bi thảm hơn nhiều.
( Nỗi buồn 30/4 và những nghĩ suy -27/4/13- Nhà báo Lê Diễn Đức
(Trích)” Năm 2009, trong cơn sốt thành lập các hãng phim tư nhân với làn sóng nhà nhà làm phim thị trường yêu đương tay ba, tay tư thì đạo diễn Lê Dân bỏ hơn 6 tỉ đồng thực hiện bộ phim “Những bức thư từ Sơn Mỹ “. Phim tái hiện cuộc thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) ngày 16-3-1968 tại thôn Mỹ Lai, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi. Mang bộ phim đến Liên hoan phim Cannes 2011, song bộ phim không thành công tại đây. Việc phát hành bộ phim này cũng thua lỗ khiến Lê Dân phải bán nhà ở quận 7, TP.HCM, dọn về sống ở quận 12 rồi Bình Dương trong một căn phòng nhỏ “.
Tin mới, tin tốt
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ bị cáo buộc để lộ thông tin tác chiến lần hai
China gửi trả lại máy bay Boeing lắp xong ở Thượng Hải về Mỹ, từ chối nhận
Maga will say “the left is so divisive”.
Có bọn thẩm phán “thái dúi” 6 tên ở Tối Cao Pháp Viện và đám Cộng Hòa MAGA “chồn lùi” ở Quốc Hội che chở thì nội vụ rồi cũng sẽ trôi vào dĩ vãng ấy mà !
Nói đi cũng phải nói lại
Rất mừng Việt Nam có những người như Bùi Văn Phú & các trí thức, những người chuyên nghề tái tạo màng, lộn, niềm tin, luôn xây dựng niềm tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng . Có họ, Đảng dễ làm ăn . Granted, Đảng không cần tới họ lém . Nhưng để cho mọi việc tiến triển nhanh & gọn nhẹ hơn, công của các trí thức cả trong lẫn ngoài nước hoàn toàn hổng nhỏ . Chuyện gì thì … uh, mọi thứ đều bình thường . Mỗi ngày, mỗi trí thức nên chọn nói 1 điều tốt về Đảng, và nên lập thành 1 phong trào thi đua . Tớ tin sẽ có thưởng
Xin hỏi Bùi văn Phú, đây là lời của nhà báo tị nạn hay dư luận viên Việt cộng?:
“Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm đứt. Quê hương đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược.”
why not both? Sự khác nhau giữa trí thức, cả trong lẫn ngoài nước, với những người bị gọi oan là bò đỏ, theo Thái Hạo, chỉ là tiểu tiết thôi muh
Anh Phú à, CỘNG SẢN VĨNH VIỄN KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI!
(Phải lật đổ cộng sản, phải giết đảng viên, đó là cách duy nhất để thay đổi!)
Anh Phú có thể thay đổi qua hướng Cộng Sản, chớ ngược lại thì hơi bị khó
Dân Mít đặc hải ngoại dzìa VN phen này dzô mánh !
Mánh gì? Còn phải hỏi, mánh hửi ĐỊC ! Ai địc?
Dạ thưa lính TC được mời qua diễu hành chung với lính VC. Lính TC vừa đi vừa đá cái cẳng thật cao đặng có điều kiện thuận tiện đặng … địc cho lính VC cảm nhận, nhưng mà Mít đặc hải ngoại ta đứng tò mò lóng ngóng cái cổ nên cũng dzớt dzác chút đỉnh mùi hột dzịc muối ăn sáng ! Ha ha ha !!!
Sài Gòn tưởng phen này lên dzoi
ai ngờ VC chơi xỏ cho xuống chó !!!
“quận 1 sáp nhập từ 10 phường còn 4 phường với tên gọi phường Tân Định, Sài Gòn, Bến Thành, Cầu Ông Lãnh.”(trích báo VC.)
Dât Mít đặc nên ăn mừng vì tên Sài Gòn còn được VC giữ lại là may lắm rùi. Tên Sài Gòn ngang với tên Cầu Ông Lãnh à nha. Mít đặc ơi là Mít dặc ngu ơi là ngu ! Ngu quá ! Ha ha ha !!!
Thiên cơ bất khả lậu
Cảnh báo cảnh báo ! Lính TC ăn hột dzịc muối đi diễu hành 30/4 đá cái cẳng rất cao ý đồ gì???
VC: Dạ dạ chúng con mời chúng ông sang diễu binh ngày 30/4 ạ ạ !
TC: Hảo hảo tốt tốt ! Lính chúng ông mỗi sáng phải được bồi dưỡng 4 quả hột dzịc muối lớ ! Khi đi diễn hành thì chúng ông bước đều và nâng cái cẳng lên cao lắm à nha !
VC: Dạ dạ được nhưng mà đưa cái cẳng lên quá cao làm gì ạ ạ ạ ạ !
TC: Làm gì là làm gì, đặng lính chúng ông cho lính chúng mày hửi ĐỊC dằn mặt chứ làm gì ! Ha ha ha !!!
Nếu lãnh đạo Việt Nam bắn súng lục vào quá khứ, tương lai sẽ blow up Lăng Hồ Chí Minh Sky-hi, go Ka-Boom
“Andrew Wells-Dang, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á, làm việc cho United States Institute for Peace (Viện Hoa Kỳ vì Hoà bình) vừa bị chính quyền Donald Trump dẹp bỏ, nói đến quyền lợi quốc gia của hai nước trong việc xây dựng quan hệ là dựa trên lòng tin và sự tôn trọng thể chế của nhau”
Thats why i voted for him
Bùi Văn Phú, trích thẳng trong bài
“Miền Nam đã được giải phóng. Chiến tranh đã chấm đứt. Quê hương đã thống nhất. Nhân dân đã đánh đuổi được giặc Mỹ xâm lược”
Tại sao Đảng vẫn lãnh đạo, vì trí thức cả trong lẫn ngoài nước đều nói năng kiểu này, rùi vỗ ngực tự xưng mình là thế này thế nọ