Hào khí thành Nam

1

 

 

 

Đêm Thượng Nguyên, trăng tròn như cái vành thúng được ai đó treo lên bầu trời. Những cơn gió, thôi lùa qua những vách nứa nơi đầu hồi. Đất trời dường như ấm trở lại. Khách khứa, bà con xóm làng đến chia vui, tiễn đưa tân cử nhân Doãn Khuê vào kinh thành thi Hội đã ra về. Làng Ngoại Lãng, tổng Vô Ngại, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương trở về với cái tĩnh lặng của miền đồng quê.

Đóng cổng, quay lại Khuê châm thêm nước vào ấm. Trà tỏa ra mùi hương thanh dịu. Nước đã ngấm, Khuê hai tay nâng tách trà đi về phía góc phản, nơi tân Tổng đốc Định- Yên, kiêm Tuần phủ Hưng Yên Doãn Uẩn còn ngồi đó. Khuê chưa kịp mời, Uẩn đã hỏi:

-Chú định khi nào vào Kinh?

Khuê đứng thẳng người:

-Thưa bác cả, ngày mốt em sang Nam Chân, chào thày Ngô Thế Vinh. Có lẽ, ở lại đó vài ngày, rồi cùng Phạm Văn Nghị xuôi Kinh ạ.

– Ừ, chú định vậy cũng phải. Đi sớm một chút có thời gian nghỉ ngơi, chuẩn bị khoa thi sẽ tốt hơn.

Đỡ tách trà từ tay Khuê để xuống phản, Uẩn rút chiếc túi trong tay áo ra và bảo:

-Khoa thi này, tuy triều đình đã lo nơi ăn, chốn ở cho các sĩ tử, nhưng đường xa, lạ nước lạ cái, cũng cần phải chi tiêu. Ta có chút ít lộ phí, mong chú nhận cho.

Tuy là anh em con chú bác, nhưng Uẩn lớn hơn Khuê đến gần hai con giáp. Khuê mồ côi cha mẹ từ tuổi lên mười, do vậy được Uẩn chăm sóc, bảo ban, thúc giục việc học hành. Từ ân tình ấy, lúc nào Khuê cũng coi trọng Uẩn như một người anh cả, một người cha đỡ đầu vậy.

Khựng lại, dằn cơn xúc động, Khuê mới ngập ngừng:

-Cảm ơn bác cả…nhưng…

-Còn nhưng gì nữa! Cả chục năm chinh chiến, ta may mắn được triều đình bổ nhiệm làm Tổng đốc Định- Yên, năm nay mới được ăn Tết ở nhà. Chú cũng vất vả về đại gia đình ta nhiều rồi. Hãy cầm lấy, lo cho tốt việc thi cử, có vậy ta mới được yên lòng. Gặp thày Ngô Thế Vinh, và Phạm Văn Nghị, nói cho ta gửi lời thăm hỏi…

Năm Mậu Tuất 1838, niên hiệu Minh Mạng thứ 19, cùng với người bạn Phạm Văn Nghị, Doãn Khuê vượt qua hai khoa thi Hội, thi Đình, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Tròn 25 tuổi, Khuê là người tiến sĩ trẻ nhất khoa thi ấy. Năm sau, Khuê được phong quan Hàn lâm viện biên tu, và sau đó được bổ nhiệm chi phủ Ứng Hòa…

Giải quyết xong những bê bối của phủ nha mà người tiền nhiệm để lại, Khuê đến ngay làng Vân Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hòa thăm người bạn Dương Quang. Dù đã biết trước, nhưng Quang không ngờ Khuê đến nhà thăm sớm như vậy. Là bạn, nhưng hiện Khuê đã là quan ở phủ nhà, vợ lại vừa lâm bồn làm cho Quang một chút bối rối. Tuy nhiên, gặp nhau cái chất mộc mạc, tình nghĩa của Khuê đã xua tan suy nghĩ ấy trong Quang. Trong lúc khật khừ, Quang bảo:

-Nhà vừa sinh trưởng nam, mỗ tôi chưa đặt tên. Nhân Tri phủ đến chơi cho cháu cái tên, thì thật may mắn lắm.

Đặt cốc xuống mâm, Doãn Khuê cười:

-Tiểu đệ vừa lập gia thất, cũng còn bỡ ngỡ lắm. Tuy nhiên, việc học cũng lấy làm hanh thông, thôi thì cứ lấy tên tiểu đệ đặt cho cậu cả vậy. Hậu sinh khả úy, sau này Dương Khuê* đỗ Giải nguyên, Hoàng giáp không chừng.

Quang nhìn Khuê xem chừng cảm động lắm:

– Quan tri phủ làm thế này, thật là ban phúc đức cho gia đình vậy.

Quang với cút định châm thêm tửu, Khuê đã vội xua tay:

-Bác lượng thứ, tửu lượng có hạn, hôm nay tiểu đệ đến đây cũng có việc muốn nhờ vả đấy!

– Có chi, xin Tri phủ cứ nói. Làm được mỗ tôi xin dốc lòng.

-Tài trí của bác, trước sau triều đình cũng vời gọi. Tuy nhiên phủ nha hiện rất cần người. Nếu được, mời bác ra giúp tiểu đệ một thời gian.

Trầm ngâm một lúc, Quang bảo:

-Qủa thật, gánh nặng cha mẹ già, thêm thê tử còn dại, chưa thể ra giúp ngay, nhưng mỗ tôi sẽ tiến cử một người có trí dũng cho Tri phủ. Người này, tính tình khí khái, học hành khá, đặc biệt võ công rất thâm hậu, nhưng không muốn thi cử để tìm công danh. Nghe nói, hắn là hậu duệ của Ức Trai tiên sinh.

Nghe vậy, Khuê mừng lắm, hỏi:

-Tên gì, nhà ở đâu?

– Tên Nguyễn Bá, ở làng bên, nhưng Tri phủ phải thân hành đến đó tốt hơn.

-Được…được, sau đây chúng ta sẽ đến đó…

Với tính cương trực, liêm khiết, cùng với sự trợ giúp của Bá, trong một thời gian ngắn, Khuê đã ổn đời sống, sinh hoạt của người dân Ứng Hòa sung túc, và đi vào nề nếp một cách rõ rệt. Năm Thiệu Trị thứ nhất 1841, Khuê được bổ nhiệm làm Giám sát ngự sử biên thùy phía Bắc, đạo Lạng- Bình.

Lúc này, dân Nam Kỳ liên tiếp nổi loạn. Ngoài biên, dân Chân Lạp nổi dậy chống đối quan lại Đại Nam cai trị. Tướng trấn thủ Trương Minh Giảng nhùng nhằng chưa thể dẹp yên. Vua Thiệu Trị nghe lời khuyên của Đô thống Tạ Quang Cự  bỏ Trấn Tây Thành. Buộc tướng trấn thủ Trương Minh Giảng phải rút quân về An Giang. Hay tin Khuê cho rằng, đây là việc làm rất bất lợi, nên lập tức viết tấu biểu can ngăn Thiệu Trị: “…Nếu ta rút quân, chắc chắn giặc Xiêm sẽ không bỏ lỡ cơ hội, quay lại lấy Trấn Tây Thành làm bàn đạp tấn công Đại Nam. Nguy cơ chiến tranh bùng nổ, và chiến trường sẽ ở ngay trên đất Đại Nam ta. Do vậy, hạ thần xin bệ hạ cử ngay một tướng quân giỏi chiến trận cũng như cai trị, an dân sang giúp Trương Minh Giảng giữ vững Trấn Tây Thành. Đó là lá chắn vững chắc cho phía Tây Nam Đại Việt ta. Được như vậy, thì thật may mắn lắm thay. Xin bệ hạ soi xét kỹ.“

Là một Hoàng đế nhân từ, nổi tiếng thi ca, nhưng không có tầm nhìn, ít có tham vọng mở mang bờ cõi, do vậy khi nhận được tấu biểu của Khuê, Thiệu Trị đã gạt bỏ. Không những vậy, ông còn cho bỏ luôn cả phủ Quảng Biên và Khai Biên.

Một tin sét đánh. Hoàng đế đã tự chặt tay của mình, Khuê buồn rầu lẩm bẩm như vậy.

Chiều biên cương mây mù đã giăng kín lối. Mờ mờ bên kia sườn núi những vỉa đá nhọn hoắt đâm thẳng lên nền trời. Gió từ phía Bắc thổi về đập vào vách đá, kêu u oa như tiếng sáo diều bị nghẹt lỗ. Khuê trầm ngâm bên đống đơn từ kiện tụng. Chợt người lính vệ đi vào:

-Bà Nguyễn Thị Ngũ chủ thương điếm Ngũ Thị, tìm Giám sát ngự sử muốn có điều bẩm báo ạ.

– Cho bà ta vào.

Ngũ Thị là người đàn bà khoáng đạt, nhân từ. Thị có thương điếm hầu hết các tỉnh, từ Hà Nội lên Thái Nguyên và đến Lạng Bình. Thị đã hiến nhiều của cải, vật chất cho triều đình mỗi khi đất nước có thiên tai, hoặc chiến tranh, giặc giã. Đã nghe tên, tỏ lòng mến phục Ngũ Thị ngay từ khi còn ở trong Kinh đô, nên Khuê đứng dậy, ra cửa đón.

Khi Khuê kéo ghế mời, Thị xin phép được đứng. Có lẽ, cơn u uất trong người còn chưa tan hết, bởi Thị vừa từ nơi Trưởng quan ty bố chính đến. Khuê chưa kịp hỏi, Thị đã đi thẳng vào việc:

-Thưa quan, hạ dân là phận đàn bà, đến thưa gửi, kiện tụng thì thật không nên. Nhưng không thể không đến, bởi gần đây, Trưởng quan ty bố chính Đậu Thậpép các thương điếm phải vàobang hội. Và trưởng cái bang hội này là người Quảng Tây đội lốt dân Việt, do Trưởng quan ty bố chính sắp đặt. Giá cả, hàng hóa đều do người này ấn định. Có một vài thương điếm không chịu gia nhập đã bị bắt giữ, và tịch thu gia sản. Nguy hiểm, và dã man hơn nữa, họ còn dùng bọn thảo khấu, được gọi là một thứ âm binh mới để đánh, giết  người, nếu chống đối. Theo hạ dân biết, cái bang hội này chỉ là cái vỏ bọc cho Trưởng quan ty bố chính cấu kết với quan Lãnh binh Lê Thất buôn bán thuốc phiện, hàng cấm qua biên giới mà thôi. Sự qua lại rất mờ ám với Trung Quốc của chúng là điều lo ngại cho an ninh Đại Nam ta. Mong quan lớn soi xét, điều tra, cứu lấy các thương điếm và dân chúng nơi đây.

Khuê lắng nghe, rồi hỏi Ngũ Thị:

-Các ngươi đã trình báo lên tuần phủ chưa?

-Dạ, thưa rồi, nhưng mỗi lần trình báo là một lần bị âm binh đánh đấm, đe dọa. Bây giờ bọn hạ dân có nhử kẹo kéo cũng không dám đến quan tuần phủ nữa đâu ạ.

-Thôi, ngươi cứ yên tâm về, ta sẽ điều tra, trình báo triều đình và xử lý thỏa đáng.

Trời đã khuya. Khuê ngồi bó gối lặng im trong bóng tối. Đĩa đèn dầu vẫn cháy, nhưng không thể xuyên thủng màu đen như ken trước mặt. Nguyễn Bá ướt sương đêm, từ trong bóng tối chui ra:

– Bác chưa đi nghỉ sao?

Khuê bảo:

-Ông chưa về  sao ta ngủ được.

Cởi áo treo lên cột nhà, rồi Bá ngồi xuống cạnh Khuê:

-Qủa thực, tên Đậu Thập, Trưởng quan ty bố chính đã cấu kết với Lê Thất, Lãnh binh buôn bán thuốc phiện, hàng cấm qua biên giới. Điểm tập kết của chúng khi thì kho bang hội, lúc khu lãnh binh. Hai tên này là hung thần, nỗi khiếp đảm của lương dân khu vực biên giới phía Bắc này.

Người Khuê run lên, hai tay bóp chặt tay vào thành ghế:

-Như vậy đã rõ. Ta sẽ viết tấu biểu về triều đình ngay. Và chúng ta âm thầm điều tra tiếp. Về thân thế hai tên này, hồ sơ có trong văn khố, chắc ông đã đọc?

– Dạ, mỗ tôi đã biết.   

Đậu Thập thực ra là họ Nguyễn, người tỉnh Hà Nội, xuất thân từ nghề hoạn lợn. Đầu năm 1830, Thập bỏ sang Trung Quốc theo Minh giáo (Mani giáo) và đổi thành họ Đậu. Năm 1833 Thập về nước, được một Lại mục ở phủ Tổng đốc Thái Nguyên nhận làm con nuôi. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) nhờ có chút công trong vụ dập tắt sự nổi dậy chống triều đình của Tri châu Bảo LạcNông Văn Vân, nên Thập đã được triều đình ban thưởng, cất nhắc. Khi được bổ nhiệm lên đạo Lạng Bình, Thập được giới thiệu làm quen với Lãnh binh Lê Thất. Thất người Thuận Hóa, xuất thân từ tên đốn củi, rồi làm cai mỏ cho triều đình nhà Thanh. Sau này không rõ, bằng cách nào, và từ đâu Thất được bổ nhiệm làm Lãnh binh thuộc phủ biên ải này. Bộ Lại nhiều lần đặt nghi vấn, điều tra, nhưng chưa thể kết luận.

Trong ba tháng, Khuê dâng liền ba biểu tấu, nhưng buồn thay, hoàn toàn không nhận được hồi âm từ phía triều đình. Thập và Thất buôn bán thuốc phiện, hàng quốc cấm, và đánh, giết người ngày càng công khai, trắng trợn. Sự lộng hành ấy, làm cho Khuê không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi, nên bèn gọi Bá vào bàn:

– Bọn Thập và Thất chắc chắn có đồng đảng đứng sau, không chỉ trong phủ, đạo này, mà còn trong triều đình nữa. Do vậy, đến hôm nay, ta vẫn chưa nhận được chiếu chỉ. Và dù có chiếu chỉ, chúng ta khó có thể xử tội chúng ở đây, bởi vây cánh đồng đảng, cũng như không ngoại trừ thế lực bên kia biên giới. Nên ta muốn ông chọn ra một số người can đảm, võ nghệ tinh anh trong đám lính vệ, cùng tập luyện, lựa thời cơ bắt hai tên này, rồi âm thầm đưa về phủ Thái Nguyên. Ta có thể liên lạc với người bạn Tô Trân hiện đang lãnh chức Án sát sứ ở đó. Làm việc này, tuy vừa lòng dân, nhưng trái với qui chế của triều đình. Chắc chắn ta sẽ mang trọng tội. Mấy năm làm quan, ta cũng tiết kiệm được khoản tiền, ông cầm lấy, xong việc đưa gia đình đến một nơi nào đó sinh sống. Ông không phải là người của triều đình, sẽ không bị truy cứu đến đường cùng đâu. Ta biết, đã làm khó cho ông, nhưng quả thật không còn cách nào khác.

Lời của Khuê đã làm cho Bá thực sự xúc động:

-Sao bác lại nói vậy. Mấy năm qua, không chỉ vì việc công mà mỗ tôi theo bác, nhục vinh cũng đã trải qua. Tình như  thủ túc. Mỗ tôi sợ chết, tính toán thiệt hơn thì đâu có theo bác. Việc này, bác đừng để trong lòng. Chúng ta cùng làm, hậu quả cùng gánh. Tuy nhiên, bác không đáng phải làm như vậy. Nếu bác cho phép, ngay đêm nay, mỗ tôi cho mỗi thằng một dao. Chỉ có giời biết, đất biết. Đó như là một sự trừng phạt tội ác mà bấy lâu nay chúng đã gây ra cho nhân dân, và đất nước vậy…

-Không được… không được, chúng ta làm vậy, khác gì thảo khấu. Chết thằng Thập, Thất này, sẽ có thằng Thập, Thất khác lên thay. Bởi không vạch được tội, không xóa được tận gốc băng đảng của chúng. Do vậy, bằng bất kỳ hình thức nào, chúng ta đưa được chúng ra công đường xét xử, đó mới là sự trừng phạt thật sự. Cái giá phải trả, ta đã xác định trước rồi.

– Vâng! Đã hiểu, mỗ tôi sẽ có cách bắt hai thằng giặc già, và đồng đảng, mang về phủ Thái Nguyên cho bác…

Chờ khi Bá đã bắt được Thập và Thất đưa về Thái Nguyên an toàn, Khuê mới viết lời giải thích sự việc cho tri phủ và phó Lãnh binh Hoàng Văn Bình,,+*-. Quan tri phủ là người nhu nhược, nên lặng im chờ phán quyết của triều đình. Giai là kẻ cơ hội, với Thập và Thất chỉ bằng mặt chứ không bằng lòng. Hơn nữa Giai là thuộc hạ cũ của Tướng quân Doãn Uẩn, anh của Khuê, do vậy cũng án binh bất động.

Và đúng như dự đoán của Bá, chỉ có bọn âm binh, bè đảng kéo xuống định giải cứu Thập và Thất. Nhưng Bá và lính vệ vây bắt sống hết. Bọn âm binh già dái non hột này, chỉ một trận đòn của Bá khai tuốt tuồn tuột những tội ác của Thập, Thất và băng đảng.

Được sự trợ giúp của Án sát sứ Thái Nguyên Tô Trân, Khuê mang Thập, Thất và đồng đảng ra xét xử, có đầy đủ vật chứng và nhân chứng. Không thể phủ nhận tội ác, nhưng vin cớ, Khuê chỉ có quyền giám sát, không được quyền xét xử, khi chưa có chiếu chỉ của triều đình, Thập và Thất chống lại phiên tòa. Khuê quát: Triều đình ở xa, chiếu chỉ chậm trễ là chuyện thường. Các ngươi ăn lộc của dân, nhưng cướp của, giết dân, buôn bán thuốc phiện, cấu kết với ngoại bang tàn phá đất nước. Ta thay mặt triều đình giám sát vùng biên ải này, không thể không bắt các ngươi trị tội. Chưa có chiếu của triều đình, nhưng ta có chiếu của dân, làm theo ý dân. Khuê lập tức tuyên phạt Thập, thất và những tên tay sai ngoại bang, trực tiếp giết người tội chém đầu.

Được canh phòng khá cẩn mật, nhưng âm binh của Tổng đốc Lưỡng Quảng nhiều lần vượt biên giới, giả dạng đột nhập nhà tù nhằm giải cứu Thập và Thất. Tuy thất bại, nhưng chúng giết chết một số lính vệ, làm Bá bị thương. Sợ có biến cố, do vậy, bất ngờ mùa thu năm 1842, Khuê cho chém ngay Thập và Thất, dù đã nhận được Thánh chỉ, chờ Bộ hình thẩm tra lại.

Tuy tấu biểu của Khuê trình bày, giải thích rõ ràng, Thiệu Trị vẫn nổi giận lệnh cho Bộ hình bắt Khuê về trị tội: Riêng tội kháng chỉ, đủ để ta lấy đầu nó. Thiệu Trị hất tung cả chiếc bàn trước mặt.

Bọn đại thần Doãn Uẩn, Nguyễn Tri Phương, Trương Đăng Quế xúm vào can ngăn. Lúc sau Thiệu Trị mới nguôi giận, bảo: Đầu cho gửi tạm ở đó, từ nay ta không muốn nhìn thấy mặt nó nữa. Nhưng đến cuối năm 1842 không hiểu thế nào, Thiệu Trị chỉ giáng Khuê xuống bốn cấp, bổ nhiệm làm giáo thụ ở phủ Xuân Trường. Và Tô Trân điều về Kinh làm Toản tu ở Quốc Sử Quán.

Dường như, những tháng cuối cùng của cuộc đời, Thiệu Trị càng có những việc làm, quyết sách  kỳ cục. Bức màn đêm phủ kín cả triều đình. Khuê hoàn toàn chán nản, mất lòng tin. Vào mùa hè năm 1847, Khuê dâng biểu từ quan.

Nghe tin, Doãn Khuê mở trường, học trò khắp nơi đến xin học. Buộc Nguyễn Bá phải giúp Khuê dựng thêm nhà ở cho học trò. Trường Đại Tập Thành Nam do Bá đặt tên được Khuê gật gù khen hay.

Sau Tết Nguyên Đán 1854, đám học trò chưa trở lại, chỉ còn Khuê và Bá ngồi nhâm nhi bên mâm cơm cúng hóa vàng. Ngoài trời, cơn mưa phùn như đang rây bột trải lên con đường làng. Mới về chiều, nhưng bóng tối đã kéo đến rất gần. Bóp bép như có tiếng chân người đang vào ngõ. Bá đang định đứng dậy, một nam nhân đã bước vào cửa. Khuê chưa nhận ra, nam nhân ấy đã chắp tay:

-Thưa thày, con là Phạm Văn Hàm, thứ nam của Hoàng giáp Tam Đăng. Năm mới thầy con sai con sang chúc tết, và gửi cho thày phong thư ạ.

Nghe Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Khuê vội đứng dậy:

– Chà chà, mấy năm ta không gặp, con đã là một người đàn ông thực sự rồi. Đường xa…đường xa, ngồi xuống ăn uống chút gì cho ấm cái bụng đã.

Khuê với tay lấy đĩa đèn dầu, mở thư cắm cúi đọc, rồi ngẩng đầu lên bảo:

-Hoàng giáp tuy là đồng khoa thi, nhưng là bạn của thày ta. Một người có nhân cách lớn, ta kính trọng. Tết Thượng Nguyên này, Hoàng giáp mời ta xuống Trại Sỹ Lâm, mục sở thị nơi cửa biển Đại Nha đang được khai khẩn. Nếu muốn, ta có thể cùng Hoàng giáp lập ấp, mở mang cửa biển này. Đây cũng là ước nguyện của ta từ lâu. Con về nói lời đa tạ của ta đến Hoàng giáp. Tết Thượng Nguyên nhất định ta sẽ xuống.

Bọn học trò Nguyễn Quang Bích*, Phạm Huy Quang, Bùi Viện… muốn được tự khiêng võng đưa thày xuống trại Sỹ Lâm. Nhưng Khuê bảo, ta sẽ đi bộ, các con ở lại bảo ban nhau, chăm chỉ đèn sách. Ta sẽ quay về sớm thôi. Nói rồi, Khuê chỉ dẫn theo Bá và thứ nam Doãn Vị, cùng một số tráng đinh.

Nhìn trại Sỹ Lâm bước đầu Hoàng giáp Phạm Văn Nghị đã khai phá xong, Khuê ưng lắm. Dẫn Khuê ra ấp Một của trại, Nghị bảo, ta đã viết khế ước tặng cho ông phần đất phía đông này. Có thể nói, đây là khu đất ít phèn, đẹp nhất của trại Sỹ Lâm. Khuê cảm động, vái tạ Nghị: Tiểu đệ thật may mắn, phước đức nhận được ân huệ từ Hoàng giáp.

Để Bá tạm thời ở lại giúp Doãn Vị, Khuê quay về chiêu mộ dân. Hay tin, điền chủ, gia đình học trò của Khuê cũng xuống tham gia khai hoang, mở đất, mở trường khá đông. Và từ một cái làng Thư Điền, Khuê khai phá, mở ra các làng Tây Thành, Chí Thiện khác, thuộc tổng Sĩ Lâm, huyện Đại An, Phủ Nghĩa Hưng.

Năm 1861, Tự Đức thứ mười lăm, đất nước hai đầu giặc giã, chiến tranh. Miền Nam, Pháp đánh chiếm các tỉnh miền Đông, ngoài Bắc giặc trong nước cấu kết với phỉ Thái Bình thiên quốc nhà Thanh đánh phá Tây Bắc, qua vùng ven biển Đông Bắc, xuống giáp gianh đồng bằng. Cùng đó, khoa thi Hương ở Sơn Tây thiếu người có khả năng làm quan chủ khảo, càng làm cho Tự Đức lo lắng hơn, nên hỏi Đại học sĩ Trương Đăng Quế:

 -Ai có thể làm quan chủ khảo khoa thi hương này?

Im lặng trong giây lát, rồi Quế bật nhớ ra:

-Thưa bệ hạ, còn một người tài năng, dũng trí không kém Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị.

-Ai? Tự Đức chộp lấy hỏi.

– Đó là Doãn Khuê. Hiện nay Khuê đang dạy học và cùng Nghị khai khẩn đất đai vùng cửa biển Đại Nha, phủ Nghĩa Hưng.

-Có phải Khuê đã từng làm Giám sát ngự sử thời Tiên đế và là em cố Thượng thư Bộ Binh kiêm Đô ngự sử Doãn Uẩn.

– Dạ, thưa đúng vậy.

Như trút được gánh nặng, ngay trong ngày Tự Đức hạ chỉ, bổ Khuê làm Đốc học Sơn Tây, kiêm quan chủ khảo khoa thi Hương.

Nhận chiếu chỉ, Khuê buộc phải để thứ nam Doãn Vị lo công việc khai hoang, đèn sách giao cho bọn Nguyễn Quang Bích, Phạm Huy Quang, lên đường nhậm chức. Khoa thi Hương vừa hoàn tất, bọn phỉ nhà Thanh (giặc Thanh) đánh chiếm xuống tận các phủ Vĩnh Tường, Quốc Oai. Khuê liền dâng biểu lên triều đình cho tuyển mộ các cử nhân, tú tài, thủ dõng, thí sinh khoa thi Hương vừa qua cùng tham gia đánh giặc. Được sự đồng ý của triều đình, các sĩ phu, tráng đinh tham gia rất đông đảo. Khuê chia binh thành ba đạo. Đạo thứ nhất đích thân Khuê cùng Bá tiến đánh phủ Vĩnh Tường. Đạo thứ nhì do Doãn Chi con cả của ông đánh chiếm lại phủ Quốc Oai. Đạo thứ ba do thứ nam Doãn Giốc, và người cháu Doãn Trứ truy kích bọn tàn quân đang đóng chiếm Hạ Hòa. Cùng lúc cả ba đạo quân đánh tái chiếm, giặc Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy. Khuê ra lệnh truy kích đến cùng. Lúc này, mặt trận Thái Nguyên cũng giao tranh ác liệt. Tri phủ Doãn Chính (con Doãn Uẩn) cháu của Khuê đang bị giặc Thanh vây hãm tại Phú Bình. Được tin, Khuê cấp báo cho Doãn Chi, và Doãn Giốc phải san binh thành ba đạo. Đạo thứ ba do Doãn Trứ chỉ huy, thay ông tiếp tục truy kích giặc. Còn đích thân Khuê và Bá lên Phú Bình giải cứu Doãn Chính. Đến nơi, giặc Thanh vừa chiếm được Phú Bình. Khuê cho phục binh ở ngoài. Chờ đến đêm giặc say sưa mừng vui chiến thắng, không đề phòng, Bá dẫn quân cảm tử đánh thẳng vào trung quân. Tên chủ tướng ngơ ngác, chưa kịp nhận biết quân nào, và từ đâu đến, đã bị Bá chém bay đầu. Bị bất ngờ, và chủ tướng đã chết, nhưng giặc chống cự quyết liệt. Bá múa đao vun vút lao vào. Lưỡi đao đi đến đâu đầu giặc rụng đến đó. Giặc kinh sợ, tìm đường tháo chạy, nhưng bị phục binh của Khuê ở ngoài giết và bắt sống hết. Nghe nói, sau trận này bọn phỉ nhà Thanh nghe tên Nguyễn Bá đều vãi linh hồn.

Vào thành, Khuê mới hay, do bị vây hãm hết lương thực nhiều ngày, không được tiếp tế, cứu binh, sức lực đã cạn kiệt Doãn Chính đã nhảy xuống sông tuẫn tiết. Ngay trong đêm, Khuê đốt đuốc chạy xuôi theo con nước tìm Chính. Tiếng khóc than, như lời tạ tội với Doãn Uẩn, khi không cứu được Chính của Khuê vẳng lên trong đêm làm cho các nghĩa sĩ ai cũng phải rơi lệ.

Lúc này, Tổng đốc Tam Tuyên Bùi Ái bị thương và mất, mọi sự việc đều do Khuê gánh vác. Tự Đức xuống chiếu cho Khuê thụ chức Tổng đốc Tam Tuyên và Bá lĩnh chức Lãnh binh. Nhưng Khuê và Bá dâng biểu, chỉ nhận tạm thụ phong, hết chiến tranh sẽ về dạy học. Tháng chín năm 1862 Khuê lần lượt đánh chiếm lại bốn phủ, huyện Thanh Ba, Lâm Thao, Yên Lập, Văn Chấn, và bắt sống, xử tử tại chỗ hai tướng giặc. Trong khi đó hai cánh quân của Doãn Giốc và Doãn Trứ bị quân tiếp viện của địch đánh chặn, cùng với bọn tàn binh quay lại vây hãm. Được tin, Doãn Chi quay lại ứng cứu. Trong trận kịch chiến cuối cùng ở Tam Tuyên ấy, tuy quân giặc bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng Doãn Giốc và Doãn Trứ đã tử trận. Được tin này, Khuê lặng người. Khi ấy, Khuê đang giúp Tổng thống Hải An quân vụ Nguyễn Tri Phương đưa quân từ Tây Bắc về dẹp giặc ở đạo Đông Bắc. Đó là vào cuối tháng mười cùng năm 1862. Vậy là, Tam Tuyên tạm ổn định, Khuê trả lại chức Tổng đốc, và Đốc học cho triều đình trở về quê dạy học.

Nhưng năm sau Tự Đức xuống chiếu một lần nữa, buộc Khuê phải trở lại chốn quan trường. Khi nhậm chức Chánh sứ vùng duyên hải Bắc Bộ, kiêm Đốc học Định An, việc đầu tiên của Khuê dâng sớ lên Tự Đức đòi chém đầu chánh sứ Phan Thanh Giản và phó sứ Lâm Duy Hiệp, hai kẻ ký Hiệp ước Nhâm Tuất 1862. Với Khuê, chỉ có chém đầu hai người này, mới có thể phá bỏ hiệp ước bán nước ấy. Và giảm đi sự căm phẫn của sĩ phu, cũng như những cuộc chống đối biểu tình của các sĩ tử thi Hương ở Hà Nội và Nam Định.

Nhận được sớ đòi chém hai quan đại thần, và hay tin các sĩ tử thi Hương thành Nam của Khuê nổi loạn phản đối Hiệp ước Nhâm Tuất 1862, Tự Đức nổi giận đòi bắt ngay khuê trị tội. Nhưng Đại học sĩ Trương Đăng Quế can ngăn:

-Khuê là người tài, bộc trực, được giới nho sĩ, sĩ tử kính trọng. Nếu bệ hạ bắt hắn trị tội, chẳng khác gì đổ dầu vào lửa lúc này. Theo hạ thần, nhân lúc này, Bệ hạ triệu Khuê về kinh, không những không trị tội mà còn thăng chức, giao cho hắn thêm công việc mở thương cảng sắp tới. Bởi, công việc này, trong triều hiện nay, không ai có thể làm tốt hơn Khuê. Có được như vậy, hắn chẳng tận tụy hết lòng, còn thời gian nào để liên doanh với các huyện, phủ, hoặc tụ tập đám sĩ tử đồng đơn kháng cáo nữa. Đó là, một công đôi việc chẳng tốt hơn sao, thưa Bệ hạ?

Tự Đức sực tỉnh, nén giận, gật gù:

-Ngươi hãy giúp ta soạn chiếu, vời Khuê cùng với Đào Trí, Tổng đốc Hà Nội, người có kinh nghiệm thủy thổ Nam Định, về kinh ngay.

Nhận được chiếu hồi Kinh, tuy hơi bất ngờ, nhưng Khuê rất bình thản. Bá lo lắng, sợ sau chiếu chỉ có điều gì đó khuất tất chăng, nên khuyên Khuê chưa nên về Kinh vội. Khuê bảo, việc ta làm là vì nước, vì dân có gì mà phải sợ. Hơn nữa, Tự Đức cũng là vị Vua thẳng thắn. Ngài muốn bắt tội ta thì thiếu gì cách, việc gì phải làm vậy, để mang tiếng với người đời ư. Hôm đi, một số học trò muốn đi cùng, nhưng Khuê chỉ cho một mình Bá theo…

Khi vào triều, Khuê thấy Nguyễn Tri Phương, Đào Trí, và bọn Trương Đăng Quế, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tề… đã ở đó. Khuê khấu đầu chào, Tự Đức vui vẻ nói: Việc thông thương bằng đường biển rất quan trọng và lâu dài. Do vậy, Đào Trí, Trần Đình Túc, Nguyễn Huy Tề đã tấu trình, xác định rõ, việc mở thương cảng lớn tại vùng cửa Trà Lý, thuộc các huyện Chân Định, Tiền Hải, tỉnh Nam Định. Dứt câu, Tự Đức quay sang Khuê: Đại học sĩ Trương Đăng Quế và Tổng đốc Đào Trí đã tiến cử Doãn Khuê thụ chức Doanh điền sứ cai quản việc xây dựng thương cảng, ý ngươi thế nào? Khuê nói ngay: Thưa bệ hạ, vùng cửa Hạ Lý dòng chảy hẹp, luôn thay đổi, lượng phù sa bồi lắng rất lớn. Nếu xây dựng ở đó, hàng năm phải nạo vét lòng sông rất vất vả, thương cảng không thể phát triển. Do vậy, không nên xây dựng ở đó. Vậy, theo ngươi xây ở đâu thì thích hợp? Tự Đức cắt ngang lời Khuê. Theo hạ thần, ta nên xây dựng ở vùng cửa sông Cấm, Ninh Hải thuộc tỉnh Hải Dương. Nơi đây, lòng sông rộng, nước sâu, ít phù sa và gió bão. Nó cũng gần cửa sông Bạch Đằng thuận lợi đường thủy thông thương với Hà Nội và các tỉnh. Tự Đức trầm ngâm, lưỡng lự. Không khí nặng nề, các đại thần đều im lặng. Đột nhiên, Tổng đốc Hải An Nguyễn Tri Phương tâu bẩm: Thưa Bệ hạ, nhiều năm chinh chiến, và trông coi vùng Duyên hải, sông Cấm cho đến nay, hạ thần thấy lời Doãn Khuê rất chính xác. Sau Phương, có một số đại thần cùng đồng thuận ý kiến của Khuê. Tuy đồng ý chuyển sang xây thương cảng ở cửa sông Cấm, nhưng Tự Đức vẫn bảo Khuê, việc hệ trọng, xem xét lại, viết bản tấu trình chi tiết, cụ thể. Và hỏi Khuê có yêu cầu gì? Khuê bảo, chỉ cần một người. Tự Đức cười, ngươi có thể chọn bất kỳ ai ở đây. Không, thưa Bệ hạ người đó không ở đây. Vậy là ai, ở đâu? Thưa, hắn là học trò cũ của thần. Một người đại tài, nhưng thi Hương, thi Hội nhiều lần chỉ đỗ đến Cử nhân. Về đo lường, tính toán, thực địa của người này, thần nghĩ, hiện nay Đại Nam ta chỉ có một. Hắn tên Bùi Viện, sinh năm1839, người làng Trình Phố, tổng An Bồi, huyện Trực Định, phủ Kiến Xương, tỉnh Nam Định. Tự Đức ngạc nhiên và vui mừng: Được, Bùi Viện từ nay sẽ phụ tá ngươi, xong việc sẽ phong tước, ban thưởng.

Khi đang cùng Bùi Viện vận lộn ở sông Cấm, Ninh Hải dựng xây thương cảng, Khuê được tin giặc Pháp từ Ninh Bình đánh sang Nam Định. Cả đời đã nhiều lần cầm binh đánh giặc, nhưng lần này chiến trường ngay trên quê hương, làm Khuê nóng rực trong người, dù tuổi cao, sức đã cạn. Bàn giao lại công việc cho Bùi Viện, Khuê cùng Bá đi suốt đêm về Cao Lộng. Sau khi báo tin cho con cả Doãn Chi đang là tri huyện Chân Định và thứ nam Doãn Vị ở Thư Điền, phủ Nghĩa Hưng mang quân tiếp ứng, Khê kéo binh về hợp với Phạm Văn Nghị cùng Lãnh binh Nguyễn Văn Lợi chặn đánh địch ở Độc Bộ. Rồi Khuê kéo binh về thủ thành Nam Định. Cuối năm 1873 giặc tấn công dữ dội, thành Nam Định bị phá vỡ. Khuê dẫn binh chạy về Đông Vinh, liên kết với Nguyễn Mậu Kiến ở Động Trung.  Và từ đây mặt trận tả sông Hồng là nơi chống Thực dân Pháp quyết liệt nhất những năm cuối đời Khuê…

Và chuyện kể rằng, những ngày cuối năm 1878, người ta thường thấy hai ông già Doãn Khuê và Nguyễn Bá dìu nhau đi trên con đường làng Ngoại Lãng. Có điều kỳ lạ, hai cụ mất gần cùng ngày, chôn cất cùng nơi. Nhưng ngày nay, dường như không ai nhắc đến Nguyễn Bá, kể cả các nhà nghiên cứu sử học.  

Leipzig ngày 29-9-2017

Đỗ Trường 

——————————————————-

*(Và quả thật như vậy, sau này Dương Khuê đỗ tiến sĩ, khoa thi 1868, làm quan đến chức Thượng thư. Dương Khuê là nhà thơ, tác giả của bài ca trù nổi tiếng: Gặp lại cô đầu cũ…hồng hồng, tuyết tuyết. Và cũng là người bạn, để Nguyễn khuyến viết bài thơ: Khóc Dương Khuê.)

*Nguyễn Quang Bích (tức Ngô Quang Bích) đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ đình nguyên (tức Hoàng giáp) năm 1868, làm quan tri phủ, nhà chống Pháp nổi tiếng thế kỷ 19.

1 BÌNH LUẬN

  1. Ngài Đỗ Trường viết dã sử hay nhể. Đọc cứ như… thật. Đọc truyện về Doãn Khuê là thấy một giai đoạn lịch sử gần 40 năm của Việt Nam, vừa về khía cạnh chính trị, quân sự, và lịch sử. Đỗ Trường hay lắm.

    Nhưng vì quá thật và quá gần với lịch sử nên đôi lúc có chỗ đọc không… sướng mấy. Những Doãn Uẩn, Doãn Khuê là người thật việc thật. Những chức tước của hai người này đều có thật. Đỗ Trường đã bỏ nhiều công đọc lại sử, viết lại những biến cố và thời điểm rất gần với sách sử. Đáng nể thiệt. Nhưng vì cố gắng viết gần với lịch sử nên Đỗ Trường đã không thể … bay bướm múa may với sở trường của một nhà văn. Trong truyện này chỉ có Nguyễn Bá là nhân vật dã sử. Phải chi … tôi viết truyện này thì đã để Nguyễn Bá làm vai chánh, Doãn Uẩn Doãn Khuê chỉ làm vai phụ thì … hay hơn. Nhưng may cho nhân loại, tôi không biết viết truyện hi hi hi. Và Đỗ Trường thì thích đem lại chuyện thật ra kể.

    Có mấy ý kiến vụn vặt xin được thưa với ngài. Ý kiến đúng hay trật thì chưa biết. Nhưng cứ nói liều. Và ngài thích hay không thích thì cũng … mặc kệ ngài.

    Ý kiến như ri:
    1. Ngày xưa người ta nói chuyện với nhau rắc rối lắm, nhất là dân văn học. Với người thân và bậc bề trên thì phải kỵ húy. Chắc có lẽ không thể có câu nói “… em sang Nam Chân, chào thày Ngô Thế Vinh…” vì khó có một cử nhân lại lôi tên tục của thày của mình ra nói khơi khơi như thế.. Người ta dùng tên tự thay vì tên “cúng cơm”, hay dùng chức tước, hay ngay cả tên làng để gọi người thứ ba. Nếu ông Doãn Khuê đã nói, “… em sang chào thầy Nam Chân…(hay “em sang chào thầy Bái Dương” vì Ngô Thế Vinh người làng Bái Dương, huyện Nam Chân) thì chắc hợp lý hơn.

    2. Các cụ nhà mình, nhất là dân khoa bảng, ngày xưa ăn nói thâm trầm và cô đọng lắm. Và giả sử họ không nói thâm trầm và cô đọng thì nhà văn hiện đại cứ … bịa ra, để truyện vừa có không khí trang nghiêm cổ kính của một truyện đời xưa, và vừa có nội dung nữa. Tôi nghĩ Đỗ Trường chú trọng đến chi tiết lịch sử mà bỏ nhẹ phần sáng tác các đối thoại của các cụ, cho nên từ vua tới quan, mọi người ăn nói cứ… thẳng tuột như người thường.

    3. Tổng đốc Doãn Uẩn cho cử nhân Khuê cái gì làm lộ phí đi thi, mà lại lấy trong tay áo một cái túi thì cũng … hơi lạ. Chỉ có thể là vàng hay bạc? Ngày xưa giới đại khoa bảng hay các quan, dù có làm tới đại thần, cũng rất nghèo. Ít ai vô liêm sỉ để có mức giàu có như bác Mười bác Kiệt bác Dũng bác Trọng. Sách sử để lại cho thấy nhà của đại thần Nguyễn Tri Phương rất nhỏ và rất nghèo. Đại thần Trương Đăng Quế cũng “ăn mặc khiêm tốn đơn sơ” dù là thông gia với vua giống như Nguyễn Tri Phương. Người làm quan liêm khiết, dù ở mức đại thần, có bổng lộc chỉ vừa đủ sống không chết đói. Chỉ kẻ tham nhũng mới giàu. Cho nên khó có chuyện tổng đốc đàng hoàng như Doãn Uẩn lại có vàng hay bạc để tặng Khuê. Các quan đời Nguyễn không lãnh lương bằng vàng hay bạc, mà chỉ bằng tiền hay gạo. Bác nào biết xin chỉ giùm. Như vậy nếu Doãn Uẩn tặng Doãn Khuê bằng tiền thì hợp lý hơn nhưng … vất vả lắm, vì “một quan là sáu trăm đồng”, người ta xâu một quan thành một dây chuỗi khá dài và khá nặng, vì tới 600 đồng, phải vắt xâu tiền lên vai khi đi lại.

    4. Nhân vật Đậu Thập xuất thân làm nghề hoạn lợn sao lại giống tổng bí thư Đỗ Mười quá. Còn Lê Thất chắc là ngài Lê Đức Anh? Chắc chẳng cần phải viết như thế. Nhất là Đỗ Trường bản tính hiền lành (tôi đoán thế, qua nhiều bài viết từ xưa tới giờ), cho nên Đỗ Trường chỉ đánh… mé mé, không như Trần Đại Sỹ cách đây hai chục năm, chơi độc hơn nhiều. Trần Đại Sỹ viết về dã sử đời nhà Lý, kể chuyện các hoàng tử của Lý Thái Tổ góp công giữ nước trong khi có bọn ma đầu kết bè đảng với Tàu để xâm lăng Đại Việt, và tên đầu sỏ ma đầu là Nhật Hồ Lão Nhân có mấy đại đệ tử như Vũ Nhất Trụ, Phạm Trạch có đôi môi như hai quả chuối, Đỗ Xích Thập, Lê Đức, Vũ Chương Hào… là ta thấy ngay đại ma đầu Hồ Chí Chóe với các đàn em Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Lê Đức Thọ… (Còn Vũ Chương Hào thì phải vài ngày suy nghĩ tôi mới biết gã này là ai ngoài đời). Bọn Việt cộng không biết điều này, cứ cho in Trần Đại Sỹ trong nước làm nhiều bà con cười khoái trá.

    Đỗ Trường muốn đưa câu chuyện Đậu Thập Lê Thất để … đề nghị cách giải quyết đảng CS hay sao đấy?

    5. Pháp đánh thành Nam Định năm 1873 có lẽ không “dữ dội” như Đỗ Trường viết. Mở lại sách cũ thấy thành Nam Định lúc ấy có khoảng 1500 quân lính. Lúc ấy tên đại úy Garnier chỉ đem theo 30 quân và hai ba khẩu đại bác chi đó, chia làm 2 toán, mỗi toán có 15 quân lính thôi. Có tài liệu nói chúng có 110 quân. Chúng bắn vào cổng thành vài phát là quân ta bỏ chạy và Garnier chiếm Nam Định dễ dàng. Chán lắm. Sau này Doãn Khuê và các quan chức ở Nam Định đều bị triều định kết tội đã để mất thành quá dễ dàng. Nhiều người bị xử tử. Sự thật thì các cụ đã liều mình tử chiến khá bi tráng. Doãn Khuê bị phạt đánh bằng trượng dù lúc ấy đã trên 60 tuổi. Chán lắm.

    “Chán lắm” là chán sự thật lịch sử nước mình thôi. Chứ Đỗ Trường viết hay lắm. Vừa đọc vừa phải … “gú gồ chấm tiên lãng” để coi lại những nhân vật trong truyện có đúng với sự thật lịch sử không. Và rất thích truyện của Đỗ Trường

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên