1
Hai cha con ngủ một đêm ở Hà Nội để sáng hôm sau xe 20 chỗ đến đón đi Hạ Long. Vừa đáp Nội Bài, thằng prostate đưa tay vẫy gọi nên chuyện đầu tiên của mình là vào toilet. Nhếch nhách, không “chuẩn” cho một phi trường quốc tế. Đành phải nín thở tè đại một phát cho xong.
Lần theo bảng chỉ lối tìm Taxi, leo lên một chiếc, tài xế tự giới thiệu là cựu bộ đội, bề dày lái xe xuyên nhiều tỉnh thành từ Nam ra Bắc và bây giờ ổn định với nghề Taxi ở Hà Nội. Cách nói chuyện có vẻ giống báo đài, đất nước ta bây giờ giàu đẹp; trời tối, mệt và đói, mình cũng ừ ào cho qua giờ, chỉ mong chóng tới khách sạn nhận phòng xong là đi tìm cái gì bỏ bụng.
Thấy lâu quá vẫn chưa tới khách sạn nằm trong khu Phố Cổ, mình không biết có phải là nạn nhân của màn chạy lòng vòng để đồng hồ taxi nhảy lambada hay không. Làm sao biết bây giờ, thắc mắc với ổng thì ổng lại lòng vòng thêm nữa thì rách việc.
Xuống xe thấy đồng hồ nhảy 500K mình cứ nhắm mắt trả đại cho xong.
2
Khách sạn Hà Nội do thằng con nó đặt online. Các ảnh post trên trang mạng khách sạn như các loại phòng, khu ăn sáng, khu lễ tân trông ngon lành mát mắt. Tuy nằm trong ngách phía sau Nhà Thờ Lớn, nhưng bề ngang là của hai căn nhà ghép lại và có năm tầng.
Nhưng trang mạng “quên” nói khách sạn không có thang máy. Hai cha con được bố trí phòng nơi tầng 5. Thật là khổ cái thân già. Thằng con lực lưỡng tội nghiệp bố, đề nghị vác vali cho bố. Thằng bố mang bệnh sĩ trả lời bố lo được, không dám nói với con mấy cái khớp chân của bố cứ ca bài một răng một rắc.
3
Tắm một phát cho mát trước khi đi tìm cái ăn. Thằng bạn Sài Gòn dặn ra ngoài đó muốn ăn phở phải tìm đến cụ Chiêu Hàng Đồng, số nhà 48. Nhìn trên iPhone thấy quán của cụ không xa lắm, hai cha con bèn cuốc bộ. Đến đúng nơi do bản đồ của iPhone chỉ vẫn không thấy cụ đâu.
Hỏi thăm một ông trung niên đang ngồi ăn nơi một quán lề đường, ông ta bảo phải đi theo hướng ngón tay ông chỉ tầm 30 mét, rẽ phải một đường rồi rẽ trái một đường là đến thôi. Hai cha con đi độ hai chục thước thì thằng con nói hình như có cái gì sai sai bố ơi, iPhone nó nói chỗ hồi nãy chắc chắn đúng mà. Nó ra lệnh vòng lại chỗ cái ông trung niên lúc nãy tư vấn. Đến nơi thì ông ta đã biến. Hai cha con bước sang lề đường bên cạnh thì thấy tấm bảng “Hàng Đồng” nằm khuất một chỗ, và quán phở bé tí của cụ Chiêu nằm ngay đó, buổi tối hơi khó thấy.
Thì ra Hàng Đồng là một giao điểm của vài hàng nữa, tạm gọi là Hàng Sắt, Hàng Kẽm cho gọn. Chỉ cần bước sang một đường là thành hàng khác. Lúc nãy, khi hỏi ông trung niên thì hai cha con đang đứng ở Sắt hay Kẽm. Ông ta đếch biết Hàng Đồng ở đâu mà cứ nói bừa, sợ người hỏi chê mình nhà quê. Giống như ông đầu bạc đang dẫn cả trăm triệu người đi đến một điểm mà bản thân ông ta chả biết nó tròn méo thế nào.
4
Quán phở cụ Chiêu chỉ có vài bàn, có vẻ như một loại mom-an-pop store. Chỉ có cụ đứng bếp và một phụ nữ, chẳng hiểu là bà vợ hay người làm. Sắp đóng cửa nên chỉ có một bàn có khách và chỉ còn tái. Phở ngon, có điều thỉnh thoảng phải đuổi ruồi. Hai cha con kêu người phụ nữ tính tiền thì bà này lại kêu cụ. Thì ra cụ vừa nấu vừa giữ két, vừa bốc tiền ông cụ, vừa bốc tái nạm vè gầu gân sách bắp tiết tủy bỏ vào bát cho khách. Khi bước ra khỏi quán mình bỗng nhìn trên tường dán giấy quảng cáo khổ 8×10 viết tay, bao xe từ Phố Cổ đi Nội Bài 300K tiền ông cụ. Coi như hai cha con bị chém 200.
5
Với thằng con, Hạ Long là chuyến đi đầu tiên, với mình là lần thứ nhì. Lần trước, khá lâu, nhiều năm trước Covid; khi đó, phải đến gặp làm giấy tờ và giao tiền trực tiếp cho đại lý lữ hành; lần này khỏe hơn, mọi thứ đều online, chả biết mặt mũi đại lý ra sao.
Đầu tiên là xe 20 chỗ đưa mình đi Hạ Long. Các xe đưa đón khách này thuộc nhiều chủ khác nhau, các đại lý lữ hành cũng vậy. Họ phối hợp gom khách của nhiều đại lý vào một xe cho đầy rồi mới gom tiếp vào xe khác, có nghĩa là một xe sẽ chở khách của nhiều đại lý khác nhau, mỗi xe sẽ đón năm sáu nơi theo yêu cầu của các đại lý.
Có lẽ vì nhiều khách lề mề câu giờ nên các đại lý hẹn khách chờ thật sớm cho chắc ăn. Tài xế cũng hẹn khách lần nữa trước khi đón. Thế mà hai cha con chờ gần một tiếng mới được đón, tài xế xin lỗi vì tắc đường, đón xong lại ghé thêm hai nơi nữa mới chính thức ra xa lộ. Trên xe có khách Tây lẫn Ta. Các tour du lịch bình dân bên Bangkok không bị trễ cỡ này.
Đoạn đường từ Hà Nội đến Hạ Long phần lớn là dùng xa lộ, xe không nhiều, dù đọc báo thấy nói dân miền Bắc bây giờ giàu lắm, ô tô chạy đầy đường, nhà không có chỗ đỗ xe cũng mua, cứ mua đi cho bằng với người ta rồi tính sau.
Xe có dừng chân ở Hải Dương để xả xú-bắp và giải lao. Lần trước mình đi thì trạm dừng chân này thô sơ, nghèo nàn; lần này thì bề thế hơn, có parking cho xe lớn, có siêu thị, cửa hàng ăn nhanh, toilet sạch sẽ.
Bến cảng Hạ Long có nhà ga to đùng để khách thập phương ngồi chờ người của tàu mình đến chào đón và đưa ra tàu bằng ghe nhỏ, giống như ghe taxi khi vượt biên. Lần trước mình đi chưa có nhà ga, phải leo trèo qua cả chục ghe gỗ mới ra được ghe taxi.
Tàu lớn chở khách đi hai ngày một đêm cũng khá hiện đại, khác với các tàu gỗ mong manh mình đi lần trước. Trưởng toán nhân viên nói tàu mình đang đi đóng ngay tại Quảng Ninh cách đây năm bảy năm. Có khoảng 20 phòng cho khách, cửa ra vào bằng thẻ quẹt, tiện nghi đầy đủ, có ban công để bước ra ngắm mặt trời lặn hoặc trăng sao. Nhân viên phục vụ trên tàu khoảng chục người, có người làm nhiều nhiệm vụ khác nhau khá chuyên nghiệp, theo phong cách của các cruise ship lớn. Thằng con mình dị ứng với đậu phọng nên món nào có đậu phọng họ đều để riêng một bên cho nó. Có điều khi mình nói “đậu phọng” thì nhân viên hơi ngớ ra, mình phải đổi lại “lạc” họ mới hiểu.
Thằng con rất enjoy chuyến đi tàu Hạ Long, mình thì hơi buồn vì toàn cảnh không còn nét hoang sơ như lần trước. Nước biển không còn trong veo như ông Đô trưởng nữa. Mặc dù đã có quy định cấm mang chai lọ, đồ đựng bằng plastic lên tàu, nhưng các loại rác khác vẫn còn nhiều. Tại đảo Ti Tốp, một trong những trạm dừng chân cho khách xuống chơi, người ta có quây lại một khúc cho du khách bơi lội, nhưng vừa đặt chân vào mình thấy rác nổi lều bều nên rút lui. Bái phục những người tiếp tục bơi, cả Ta lẫn Tây.
6
Một điểm mới với mình, bình thường với người Sài Gòn là bây giờ cảnh thiên hạ thanh toán mua bán bằng phương tiện điện tử khá phổ biến. Nhiều cửa hàng, quán ăn treo sẵn số tài khoản, tên ngân hàng… cho người mua chuyển khoản ngân hàng, thường viết tắt “ck” cho tiện.
Rồi sẽ tiến đến giai đoạn bớt xài tiền tươi, ai xài nó sẽ bị xem là lạc hậu, không bắt kịp nhịp sống thời đại năm sáu gờ của ông Hùng.
Giao dịch bằng phương tiện điện tử cũng là cách để giảm bớt các tệ nạn như bôi trơn, trốn thuế…
Chuyên viên kiểm toán nhìn vào Bảng Cân Đối Kế Toán sẽ biết ngay những mục nào dùng để ngụy trang những vụ bôi trơn, hối lộ…
Chỉ cần bấm vài nút trên bàn phím, cơ quan Thuế vụ sẽ biết ngay doanh nghiệp có khai số thu nhập trong hồ sơ thuế ít hơn số thu thực sự hay không.
Đem túi hay vali tiền tươi đến nộp cho quan lớn ở chỗ riêng tư để nhận một đặc ân sẽ trở thành một hành động rất nguy hiểm, dễ bị lộ.
Cần phải có thời gian giao dịch điện tử mới bớt được nạn hối lộ bằng tiền tươi. Truy quét mạnh tay như bên Tàu mà khi Từ Tài Hậu bị thất sủng, thanh trừng; cơ quan chức năng cũng vất vả khiêng ra khỏi tư dinh của ông ta cả mấy xe tải đô la, euro.
7
Lần này về mình thấy bảng cho thuê hoặc bán nhà mặt tiền nguyên căn rất nhiều, người dân nói do hậu quả của Covid. Một điểm mới nữa với mình là Grab. Thằng con tải cho mình cái app Grab xuống iPhone, giúp mình giải quyết được nhiều chuyện, trong đó có chuyện di chuyển rất tiện lợi. Ai đã sử dụng Uber thì không lạ với Grab.
Gọi xe bằng Grab rất nhanh ở Sài Gòn, Đà Lạt, Hội An, Đà Nẵng; mình chưa thử ở Hà Nội và các thành phố lớn khác nên không biết.
Giống như Uber Eats, có thể dùng Grab để gọi thức ăn và giao tại nhà. Phần vì phòng khách sạn không thoải mái, phần vì đến tận nơi có cái không khí riêng của nó, nhất là những chỗ trước 75 mình hay ăn có nhiều kỷ niệm nên mình cũng không đặt thức ăn bằng Grab.
8
Trước 75, dân Sài Gòn có La Pagode là nơi tụ tập của văn nghệ sĩ, còn Givral là của cánh báo chí, tình báo, chính trị gia.
Givral bước qua một con đường là trụ sở Hạ Viện, bây giờ là Nhà Hát Lớn. Các vị dân biểu sau khi cãi nhau chí chóe trong Hạ Viện chạy sang Givral để thở, giải khát, thỏa hiệp, xì ra tin độc lạ cho báo chí.
Givral bước qua một con đường cũng là Phòng Thông Tin VNCH, nơi có họp báo mỗi buổi chiều của chính phủ và quân đội Việt-Mỹ, bây giờ là cửa hàng hiệu Louis Vuitton. Các nhà báo đủ màu da sau khi họp báo cũng mò sang Givral làm tí bia bọt hoặc mixed drink, sẵn dịp trao đổi tin tức trong nghề. Chẳng ai chú ý đến anh chàng trung niên, khuôn mặt xương xẩu khắc khổ, hơi quê quê, mặc bộ đồ màu be bốn túi tay ngắn cánh nhà báo hay mặc, tóc chải ngược bằng bi-yăng-tin láng cón, tên anh chàng này là Phạm Xuân Ẩn. Khi đó, Nick Ut chưa đủ tư cách để vào Givral vì tiếng Mỹ của chàng dùng tay nhiều hơn miệng, không biết bây giờ có khá hơn không.
Giờ đây, 2023, Sài Gòn có quán cà phê Dinh Độc Lập, một kết hợp lỏng lẻo của Givral và La Pagode.
Tại đây, người ta ôn lại thời kỳ Covid, cả thành phố bị lockdown, hàng vạn công nhân dắt díu nhau về quê. Người ta nói công khai con số bốn mươi mấy ngan người chết do Covid chỉ là một phần của con số thực sự, người dân quá uất ức đến độ chính quyền phải đưa bộ đội đến để chống nổi loạn. Người ta trách móc đến giờ này chẳng thấy ai chịu trách nhiệm về số người chết vì chạy theo chính sách Zero Covid giống Tàu, hằng trăm trẻ mồ côi vì con vi-rut.
Tại đây, người ta bàn chuyện thời sự ở Mỹ nhiều chi tiết hơn các ông ngồi Coffee Factory ở Quận Cam, đề tài rôm rả nhất là ông Chăm bị kết tội.
Tại đây, người ta nói bô bô những chuyện thâm cung bí sử, có vẻ chẳng sợ thằng công an nào. Hễ hôm nay người ta nói ông nọ bà kia sắp bị bắt thì y như rằng, vài hôm sau bắt thật. Cụ thể nhất là tin Bảy Phúc bị hất ghế. Họ xác nhận em tiếp viên hàng không họ hàng với Thưởng đã định cư ở Thụy Sĩ. Họ khẳng định Huệ sẽ là TBT tương lai. Có lẽ các ông Carl Thayer, David Brown cũng lấy tin từ quán cà phê này.
9
Buổi tối solo qua Trường Quốc Gia Âm Nhạc đường Nguyễn Du, nơi mình hay đón M đi học đàn về trong những năm đầu 70.
Trời tối nên mấy chữ “Nhạc Viện Thành Phố” có chạy đèn lung linh nhưng chẳng hiểu sao mất đèn nơi chữ “N”, chỉ còn “hạc Viện Thành Phố”. Chuyện mất điện này không hiểu lâu chưa, có vẻ như ban quản lý cũng chẳng buồn sửa.
Ông hoàng họ Đàm có tài sản hàng trăm tỷ ở đâu mà không chịu ghé mắt tài trợ nửa móng tay để ngọn đèn này “tỏa sáng”?
Chớ nên trông chờ Ngô Thụy Miên, một cựu học viên của trường, vì người nhạc sĩ này nghe nói dị ứng với hai chữ Cộng sản và giờ này chàng vẫn nằm riêng một góc giường.
10
Tháng Tư cũng là tháng người ta hay nói về Trịnh Công Sơn. Năm nay, có một cuộc triển lãm ảnh trắng đen mang tên Giọt Nước Rơi Trên Kính với chủ đề nhạc sĩ và Hồng Nhung.
Nhiều nhiếp ảnh gia đã góp hình cho cuộc triển lãm này, trong đó có Dương Minh Long, người đồng hành cùng di sản đời sống, với bức ảnh gây tranh cãi. Người thì nói nhạc sĩ khúm núm điếu đóm cho Văn Cao, người thì nói Sơn tỏ vẻ kính trọng đàn anh.
Doanh nhân Mỹ gốc Đức Gerhard Heusch, phu quân của Hồng Nhung, cũng là một trong các nhiếp ảnh gia đóng góp cho triển lãm. Người Tây họ thoáng, xem chuyện tình cảm trước đây giữa Bống và họ Trịnh là chuyện của quá khứ.
Mới đầu tháng Tư mà thiên hạ đã book vé đi chơi vào dịp lễ lớn cuối tháng. Nhiều tour đã hết chỗ, nhiều khách sạn đã kín, vé xe khách, tàu bay rất khó mua.
Một người trẻ đến xem triển lãm Giọt Nước Rơi Trên Kính nhắc với mình về sự sinh động này để minh chứng rằng ngoài những sinh hoạt văn nghệ văn gừng khá thoáng như cuộc triển lãm này, cuộc sống người dân Việt Nam giờ đây đã khá hơn trước rất nhiều.
Mình cũng hiểu ý anh ta muốn nói đến công ơn của Đảng.
Mình định trả lời nếu không có cái đảng này, người dân Việt Nam sẽ khá hơn gấp mấy bây giờ.
Dĩ nhiên anh ta sẽ vặn lại, làm sao chú có thể chứng minh được một chuyện không xảy ra trong thực tế.
Khi đó mình sẽ trả lời bạn cứ hỏi bác Gúc là ra hết.
Màn đối thoại này mình chỉ tưởng tượng trong đầu vậy thôi chứ đâu dám nói ra, lỡ gặp phải thứ chính cống bà lang trọc thì bỏ mẹ, làm sao trở về Mỹ đây?
Nhiều người trẻ sinh sau 75 không rõ tại sao những lão già như mình tránh ở lại chơi đến hết tháng Tư, không lẽ mình trải lòng ra, dù biết có trải hết họ cũng chẳng cảm nhận được.
Về thôi!
Châu Quang
Thống Đốc Tiểu Bang Michigan tuyên bố ngày 30/4 là ngày Tưởng Niệm Tháng Tư Đen hàng năm – Black April Remembrance Day in Michigan.
“Chúng ta phải dạy cho con cháu chúng ta và các thế hệ tương lai những bài học quan trọng từ Chiến tranh Việt Nam, kể cả hoàn cảnh của những người tị nạn Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc, xem đó là một minh chứng mạnh mẽ về các giá trị của tự do và dân chủ”, bà Whitmer cho biết.” (VOA Tiếng Việt)
Chó hoang lại cái ! Câm !
Tôi nói thẳng, Ai chửi, xin mời : VK về VN với bất cứ lý do gì, đều thuộc dạng KHÔNG KHÁ ( Nói chính xác, hơi tục 1 tí là : ĐÉO KHÁ ), vì về VN là mang tiền về nuôi VC.
VC rất ma mãnh trong việc ” Du lịch VN “, vừa có tiền, vừa là công cụ để trấn áp VK. Hãy nhìn buổi nói chuyện của thằng hề NM Triết, Hội trường rất lớn, không còn 1 ghế trống, đa số phải đứng, so sánh với những cuộc biểu tình chống bọn chóp bu csVN sang Mỹ, chỉ lèo tèo 1 ít người, vì sợ bọn cs quay phim, chụp hình….ghi sổ đen, sẽ gặp khó khăn khi về… du lịch VN.
Rõ nhất, mới đây, Tòa Công Lý VN, họp ở Mỹ, 7 vị Thẩm phán chỉ lên án PV Đồng về Công hàm bán nước, mà không dám đá động gì đến CHÁNH PHẠM hồ, sợ rằng, tên, hình ảnh rõ ràng, bọn Công an sẽ không cho ra khỏi Phi trường Tân Sơn Nhất, khi về VN. Cho nên, việc làm của 7 vị Thẩm phán, mới nhìn tưởng là Chống cọng, nhưng thực tế là : CHỐNG LƯNG CHO CỌNG.
Đỗ Trường, 1 người chống cọng ” Xìu xìu, ểnh ểnh “, đang sống tại Đức, chỉ viết về Văn, Thơ, nhưng về VN, bị bọn tà quyền cho ” Lên bờ, xuống ruộng ” và bị… Trục xuất. Anh Trần trung Đạo nghe thế hoảng hồn, bẻ cong ngòi bút, viết bài chuộc tội, kêu gọi, cổ vũ VK nên gởi tiền, du lịch VN và nhất là VK nên mua thật nhiều hàng xuất khẩu của VC.
Anh Châu Quang, Đỗ Trường…. về VN, có nói mới biết, chứ làm thinh, thì chả ai biết. Điều KHỐN NẠN nhất của đám VK ( Thật sự là Hồ Kiều ) mặt thớt, khi về VN vào dịp Tết Nguyên Đán, đa số bọn chúng đều vào Dinh Độc Lập đón Tết VK ( do VC tổ chức ), ngoác to mồm hát ” Mùa Xuân trên TPHCM ” và nhất là bài ” Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng ” của thằng Nhạc nô, Cẩu Tạp Chủng Phạm Tuyên.
LCL.
Ăn uống dơ dáy, nước non thì bẩn thỉu, ra đường thì gặp toàn thứ xạo lèo. Gặp phải thằng con c.c CA/VC nó vòi tiền thì lại sợ không đưa không được. Đấm cái lổ đíc vào thử xem chết ai nào ! Ha ha ha !
Hỏi thiệt nhe: Bác Gúc = Gorbachev ?
Google
Bọn trẻ sau này bị súc vật nó nhét toàn đồ bẩn vô họng vào não nên chúng nó éo biết cái gì khác và lười tìm hiểu, suy nghĩ. Cứ nhìn thằng Phét thì biết
Không biết là thằng Phét
nó thật sự ngu hay chỉ
là giả vờ ngu ,để làm cái
chuyện vớ vẩn đần độn
trên diễn đàn này.
Cái đáng buồn là chúng
nó đông quá,càng ngày
càng đông đúc như đám
dòi bọ,sau này còn bao
gồm thêm bọn đón gió
trở cờ và cái lớp mới lớn
lên vào hùa với cái láo
phét.
Khà khà khà, anh Phét biết ngay tỏng tòng tong là tác giả viet’dong viét dài, viét qua viet lại, viét ngang viet doc, viet trên viet xuóng rùi thì cuoi cùng củng là mang cái HÒN NGỌC(nủ) VIEN ĐÔNG thời mồ ma NGUY SAI GON ra khen mà thôi, kakkakakkakakak.
Hòn Ngoc(nử ) Viển Đông thời mồ ma NGUY SAI GON đâu chỉ có đuòng DUY TÂN vói hàng cay xanh to cổ thụ mà còn có cả những vỉa hè cho bọn PIM(maco) đứng đuòng dẩn gái cho lính MẼO.
Hòn Ngọc (Nử) Vien Đông đâu chỉ có chốn sang trong. bề thé như Tòa Hạ Viện mà có cả nhửng dòng kinh rạch đen ngòm thúi tha chạy dài tư Bình Thạh cho tói quân 3 và Phú Nhuận.
Hòn Ngoc(nử) VIEN ĐÔng của NGUY SAI GÒN dau chỉ có PALAGODE noi tụ tạp của cánh nhà báo đời mà còn có cả những KHU Ô CHUỘT chứa tói hàng trăm ngàn nguòi sông chen chuc trong đo’.
Túm lại là HÒN NGOC (NỦ) VIEN ĐÔNG của NGUY SAI GÒN vùa có cả nhưng noi sang trong. cho bọn đầu nậu ma cô và các tay trùm buon lâu. củng như đám tuóng tá ăn cáp tham nhũng đồ MẼO và củng co cả hàng trăm ngàn dân sông đàu đuòng xó chợ ăn mày vát vuỏng kháp các ngả đuòng v.v.vv.
Anh Phét châm bài này và chỉ cho 2/10 vì quá săc. mùi……Hòn Ngọc Nử Viẻn Đông tù thời mồ ma GIẶC NGỤY, kakkakakakka
Dmcs
Dm mày dog phét không lý luận được với Bố là chạy, nhục Kaka Kaka. 10000 dogs csvn 47 mà không thằng nào dám gặp bố, quá nhục. Quân đội Gạc ma oánh con cacx gì
Luật có cấm mặc đồ giống quân phục VNCH? Kaka Kaka, sao dân VN lại thích mặc đồ VNCH? Bởi vì yêu thích. Vậy pháp luật Việt Nam có cấm người dân mặc quân phục VNCH hay không? Luật sư Đặng Đình Mạnh viết trên Facebook cá nhân của ông từ năm 2017 rằng: Luật pháp quy định quân phục cùng với vũ khí quân dụng … thuộc nhóm A, có trong danh mục hàng hóa cấm kinh doanh (Nghị Định số 59/2006/NĐ-CP thi hành Luật Thương mại). Và chỉ trong phạm vi cấm kinh doanh mà thôi.
Nhìn họ mặc như vậy, dog csvn luôn luôn cảm thấy sợ hãi “các thế lực thù địch” . Họ sợ rằng người ta sẽ liên tưởng đến quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Còn đối với những người dân như chúng tôi thì chúng tôi thấy nó hoàn toàn bình thường. Đấy là sở thích cá nhân. Miễn nó không vi phạm pháp luật, không bị điều luật nào cấm. Làm cacx gì được nhau.
Dám gặp bố không dog phét
Đập chết cha mày
Đít chết me mày
hey, I already told you a million time that I don’n want my noble dick gets messy with your fuking ugly and dirty mouth, okay . kakkakakkakakkaka
Du lịch cái đếc gì ăn thì ăn dơ, ở, đi, thì chặt chém mà xúm vào tranh nhau tới. Ngu hết chổ nói.
Trang Tử trong Nam Hoa Kinh viết chương Đức Sung Phù tả một thằng quê mùa thô kệch răng vẫu mắt lé, nó đi ngang thôi thì mùi hôi nách đã xông ra bế mũi. Ấy, nhưng mà không biết tại sao, bao nhiêu người đàn bà đàn ông đều mê mẩn nó.
Tâm lý con người rất phức tạp. Có những người càng bị đánh, càng được hửi địc thì nó lại càng mê ! Thế mới chết. VC biết rõ tâm lý bệnh hoạn này nên vẫn khỏe re ngồi đếm bạc. Xin lỗi, nghèo nghèo chứ mà bây giờ mà VC cho không bao ăn bao ở bảo về thì Thiến Heo tôi còn đánh … giắm nữa là về ! Ở Mỹ không có thịt heo hả ! Ha ha ha !
Người bị kẹt thời 1954…
Hồi ký của một người Hà Nội
Tự Do
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bị Cộng Sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương, thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu Lan, con ông Hòa, hỏi tôi:
“Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn à…?”
Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười: “Cái cột đèn mà biết đi, nó cũng đi,…nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển,” vẫn không thoát.
Chịu đủ các “nạn” của chế độ Cộng Sản trong 27 năm ở lại miền Bắc, tôi không “tị nạn,” mà đi tìm tự do, trở thành “thuyền nhân,” đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người giễu cợt. Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những dòng hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà Nội, thời người Cộng Sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo dài.
Hiệp Ðịnh Geneve chia đôi nước Việt. Cộng Sản, chưa lộ mặt là Cộng Sản, tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là…Vẹm!
Khi họ “tiếp quản” Hà Nội, tôi đang ở Hải Phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ “tàu há mồm” để di cư. Trước Nhà Hát Lớn, vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết định đi Nam hay ở lại. Hiệp Ðịnh Geneve ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt, hai năm sau sẽ “tổng tuyển cử “ thống nhất. Ai ngờ Cộng Sản miền Bắc “tổng tấn công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải Phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam, người đi Hà Nội là con buôn, mang “xăng” về bán. Những toa tàu chật cứng người và chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tàu, bíu vào thành toa, liều lĩnh, hỗn loạn …
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội.
Tầu lắc lư, người va chạm người.
Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi: “Ðề nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng..!” Tôi bàng hoàng vì thứ ngoại ngữ Trung Quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ Cộng Sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm thù và …tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá, người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách “mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi là “mũ bộ đội,” sau này có tên là “nón cối.” Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình Trị Thiên,” người Bắc gọi là “dép lốp,” ghi vào lịch sử thành “dép râu.”
Chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư sản, phong kiến,” biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách mạng.” Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ mi,” quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam.
Tôi phải học năm cuối cùng, tú tài 2, cùng một số “lớp chín hậu phương,” năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm.” Số học sinh “lớp chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức hiệu đoàn,” nhận “chỉ thị của thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!” Họ truy lùng…đốt sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, hiệu đoàn “kiểm tra,” lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang “tập trung” tại thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm “phấn khởi,” lời hô khẩu hiệu “quyết tâm,” và “phát biểu của bí thư thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là …” cực kỳ phản động!” Vào lớp học với những “phê bình, kiểm thảo…cảnh giác, lập trường,” tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an,” thế là hết, gia tài của tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa đày vì “thành phần giai cấp,” “sổ hộ khẩu,” “tem, phiếu thực phẩm,” “lao động nghĩa vụ hàng tháng.” Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động công trường,” miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ khẩu,” …đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp quản,” còn được gọi là “sau hòa bình lập lại,” Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhàu nát, xám xịt, thái độ “ít cởi mở,” từ “nông thôn” kéo về chiếm nhà người Hà Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”: ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm.” Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng ngoại.”
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối 30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam,” để rồi bị đấu tố là tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu.” Hoàng Giác ca bài “Bóng ngày qua,” thành “tề ngụy,” hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán,” chẳng ai còn gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập.”
“Chỉ thị Ðảng và Ủy Ban Thành” “phổ biến rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó,” từ thành thị đến “nông thôn.” Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu làng, góc phố “liên hoan tập thể.” Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại, nhưng đó là “chủ trương,” chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách ruộng đất.” Du kích, công an rình mò, “theo dõi,” “nắm vững tình hình” không bị lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung cấp” một năm theo “từng người trong hộ.” Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “ thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản,” vẫn là “đối tượng của cách mạng.”
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền vẫn bị quy là “địa chủ cường hào!” Giáo Sư Trương Văn Minh, hiệu trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập,” đã nhày lầu, tự tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư hết, chẳng còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức,” nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình,” coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích trữ,” còn thì “kiểm kê,” đánh “thuế hàng hóa,” “truy thu,” rồi “tịch thu” vì “ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố nông,” “chuẩn bị thật tốt,” nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu …! Một vài vụ, do “Ðảng lãnh đạo,” “vận động tốt,” con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai cấp,” “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ. Cảnh tượng này thật não nùng! Lời Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với đảng, hiếu với dân …” là vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được chia, chưa cấy xong hai vụ thì “vào hợp tác,” “làm ăn tập thể,” ruộng đất lại thu hồi về “Cộng Sản.”
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về XÃ hội chủ nghĩa là… nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối,” nói những gì đảng nói. Nói dối để sống còn, tránh “đàn áp,” lâu rồi thành “nếp sống,” cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”
Bạn trả lời: “I’m fine, thank you.”
Ở miền Bắc, thời đại Hồ Chí Minh, “cán bộ” hỏi: “công tác” thế nào, dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời: “…rất phấn khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng… các nước anh em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị giong về Lệ Thủy bởi “bộ đội biên phòng,” được “tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới. Trải 9 trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to: “Chế độ ta tươi đẹp.”
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù “biến chất,” người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên cũng “biến chất!” Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau phải “luôn luôn cảnh giác.” Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp tinh thần vì danh từ “đồng chí!”
Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình.” Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường, “liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng, không có ngày về Hà Nội. Bà đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu.” Rừng núi bao la, tiếng chim “bắt cô trói cột,” nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư sản,” có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarreaut. Học trường Tây thì phải chịu sự “căm thù đế quốc” của đảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào “bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không “nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn Công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn.” Không hành lý nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản,” không “tiến bộ,” không có ngày về…!
Ba tháng “kỷ luật,” Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi cổng trời cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ tình nghệ sĩ !
Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai, “xung phong,” “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ Công An “quyết tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động,” nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì đảng …nói dối!
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi đen chế độ,” “âm mưu lật đổ chính quyền,” trở thành người “Hà Nội di cư,” 10 năm về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu,” “tạm trú tạm vắng.” “Kinh nghiệm bản thân,” “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ,” số lần tù đã quên trong trí nhớ, tôi sống tại Hải Phòng, vùng biển.
Hải Phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tàu, xua đuổi “người Hoa” ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất tên sau “ngày giải phóng miền Nam.” Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự Do, hưởng chút dư hương của Sài Gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây,” bảy, tám cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ…! Cả nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!”
Về lại Hải Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở Giao Thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền Nam” ở Sài Gòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi….,” dân Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do, định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ “ năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần,” lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành thị,” nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước.”
Tôi mang nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt đẹp,” “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa Kỳ gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội,” còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về giấc mơ Cộng Sản.
Chủ nghĩa Cộng Sản xụp đổ rồi.
Cộng Sản Việt Nam bây giờ “đổi mới.”
Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i.” Người Việt Nam sẽ cắt đứt chữ “i,” dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình.” Chế độ Việt Cộng “nhất định phải đổ,” đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân loại.” Ôi!
“Ðỉnh cao trí tuệ,” một mớ danh từ…!
September 29, 2014
(nguoi-viet_com)
Mỗi lần có việc ,phải về
VN, tôi có cảm giác chả
có thú vị gì cả.
Dĩ nhiên là cũng để ra
một chút thời gian đi
vài chỗ ,tiếp chuyện với
thiên hạ . Chuyện nghe
và thấy ở đó,cố gắng để
lại ở đó ,không muốn nhắc
lại nếu có ai hỏi .
Toàn là những thứ không
vui vẻ gì đối với tôi. Chắc
cũng như thế ,đối với
người khác.Vi tôi chỉ đọc
được những lời than phiền
nhiều hơn vui vẻ trên các
bài báo “kể lại chuyến đi”
“Nhà của mình chúng lấy,
vợ mình chúng xài,con
mình chúng sai “ …
Còn kêu ca cái gì nữa ?
Cái đáng buồn là mình
bị dồn vào cái tư thế
phải nghe những điều
vớ vẩn của chúng .
Người thì sợ “không
về Mỹ được “, như t/g.
kẻ thì sợ vẩn vơ như
tôi,không biết là lo sợ
cái gì ? Nỗi sợ cô đơn,
xa lạ ,đối với chốn quê
hương của mình ?