14- Ai giết anh em Ngô Đình Diệm của Quốc Đại
Có lẽ đây là phần tài liệu dài nhất về vụ thảm sát trước đài phát thanh Huế. Tác giả dành ra 64 trang để viết về vấn đề này ở chương 8, từ 281 đến 342. Xin chỉ tóm lược.
– Thiếu tá Đặng Sỹ đã được sự đồng ý của Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm, tư lệnh vùng 1 chiến thuật. Rồi tư lệnh sư đoàn 1, Đại Tá Đỗ Cao Trí. Ông này bỏ về Sàigòn thì có Trung Tá Lê Quang Hiển, tư lệnh phó đại diện. Qua lệnh của Thiếu Tướng Nghiêm, Thiếu Tá Sỹ có thêm một đại đội khóa sinh C1, một đại đội thiết giáp đang hành quân tại Phú Lộc, một đại đội quân trấn, đại đội Thiên Hổ và một chi đội cơ giới Bảo An do Trung Úy Kỳ chỉ huy(Sau này, TT Trí Quang chỉ đích danh Trung Uý Kỳ có ý định ám sát Thượng Tọa Trí Quang. Sau này Trung Úy Kỳ bị ám sát khá ly kỳ) và một số hiến binh Quân Cảnh. Như vậy Thiếu Tá Sỹ đã nhận được lệnh từ ba phía Tỉnh Trưởng, vùng và khu. Bộ tham mưu của Thiếu Tá Sỹ bây giờ gồm có Đại Uý Lê Nguyên Phu, tiểu khu phó, Đại Uý Nguyễn Kinh Lược, tỉnh đoàn trưởng Bảo An. Đại uý Lê Duy Hiển, tham mưu trưởng.
– Không có sự dồng ý của Tư lệnh vùng, Thiếu Tá Sỹ không thể có một lực lượng hỗn hợp đông đảo như thế.
– Diễn tiến nội vụ: gửi hai tiểu đội cảnh sát và quân cảnh dàn hàng ngang vào dẹp biểu tình. Thất bại. Quyết định dùng xe cơ giới Bảo An mở đường, lính tiến theo sau xe. Thiếu Tá Sỹ, mặc áo giáp cùng với với hai hạ sĩ quan Tư và Quang đi mở đường. Gạch đá ném tứ tung vào xe.
– 10 giờ 30. xe cách đài chừng 50 thước. Hai tiếng nổ kinh hoàng. Thiếu tá Sỹ bắn ba phát súng lệnh, đồng loạt cho nổ lựu đạn MK3 ở 15 địa điểm khác nhau.
– Thiếu Tá Sỹ tiến được vào đài, gặp Thượng tọa Trí Quang. TT Trí Quang chắp tay vào nhau lo âu nói: Tôi không ngờ xảy ra như thế này. TT Sỹ nói với TT Trí Quang: Thày phải chịu trách nhiệm về những hậu quả xảy ra như thế này”. TT Thiện Minh nói với Trung Tá Thưởng: Chuyện đã xảy ra như thế này, thì tôi không biết nói sao. Tôi xin chịu hết trách nhiệm.
Nhận xét: Bài viết có khá nhiều chi tiết để người đọc nắm được diễn tiến từng giờ cuộc biến động lúc bấy giờ. Nhưng những mẩu đối thoại ghi lại giữa TT Trí Quang và Thiếu Tá Sỹ cũng như giữa Trung Tá Thưởng và TT. Thích Thiện Minh không có gì làm bằng cớ là có thực có những lời đối thoại như thế hay không? Ai đứng đó mà nghe? vì không ai kiểm chứng được là thật hay không thật.
Căn cứ vào tài liệu, Ông Sỹ nhận được lệnh từ cấp trên để dẹp đám biểu tình. Hai tiếng nổ là do từ đâu tới, Ông Sỹ sau đó chỉ thi hành theo phương án đã được hoạch định trước và không có trách nhiệm về cuộc thảm sát.
15- Trích chứng từ của Tướng Tôn thất Đính
“Thảm kịch kinh hoàng của biến cố đài phát thanh là như vậy. Nhưng cho đến nay, chưa có một ai có thể nói rõ về sự thật của biến cố đài phát thanh đêm 8-5-63 như thế nào cả. Chúng tôi đã tận lực sưu tầm từ 1963 đến giờ.. đọc và phân tích tất cả tờ trình được đệ lên trình TT Diệm. Chúng tôi đã hội kiến với TT Trí Quang, cố TT Thiện Minh, Cố TT Mật Hiển, cố TT Mật Nguyện, TT Thiện Siêu, tiếp xúc với gia đình Phật Tử, sinh viên Phật tử, nhưng cho đến bây giờ, chúng tôi cũng không thể nào quy định được đâu là sự thật. Đọc lại những gì đã được ghi lại trong một số tài liệu của Phật giáo năm 1963, chúng tôi thấy vấn đề ghi chép quá đơn giản. (trg 321). Các tài liệu về phía Phật Giáo, Hoa Kỳ đến phía VN, suốt 35 năm qua cũng chỉ đưa ra những nhận xét chung, hay những giả thuyết, chứ không ai dám cả quyết về bất cứ một sự thật nào.
Về kỹ thuật quân sự, lúc bấy giờ VNCH không thể có bất cứ một loại chất nổ nào có tính công phá lạ lùng như vậy, ép dẹp thân xác, thổi bay đầu làm cho khi khám nghiệm các tử thi, ngay các bác sĩ tại Huế cũng không quy định được bất cứ loại chất nổ nào. Họ không thể nói đó là lựu đạn, plastic hay bất cứ một vật gì. Thậm chí còn có dư luận cho là bị các xe bọc sắt (nhưng bánh cao su ) của lực lượng cảnh bị nội an do TT Đặng Sĩ cán nát, nhưng trong hoàn cảnh hàng ngàn người ở đài phát thanh, các loại xe ấy không di chuyển dễ dàng vào tận hành lang của đài là nơi xảy ra tai nạn.” (Trích: 20 Năm Binh Nghiệp, trang 323)
Nhận xét: Nhận xét của tướng Đính khá là trung thực. Nếu tin rằng ông đã tham khảo tài liệu, đã hỏi ý kiến các thầy, đã tham khảo tài liệu từ dinh Tổng Thống Diệm Không biết là loại võ khí gì đã giết hại các em như thế, vì quân đội VNCH không được trang bị những thứ vũ khí giết người.
Nhưng nếu không tìm ra được thứ vũ khí giết người là thuộc loại nào? Việc kết án tù Thiếu Tá Đặng Sĩ liệu còn có cơ sở đứng vững hay không?
Tài liệu, chứng từ dẫn chứng đầy đủ, bạn đọc đã có thể tự mình trả lời hai câu hỏi của người viết bài? Ai trực tiếp trách nhiệm giết 8 trẻ em vô tội? Và giết bằng thứ vũ khí gì?
Nếu đã có câu trả lời rồi thì xin khỏi đọc tiếp phần sau nữa? Nếu chưa, xin tiếp tục đọc phần Đặng Sỹ trước tòa án.
Tôi đã thu tập tất cả 25 chứng từ, nhưng nhận thấy nhiều chứng từ có điểm trùng điệp nên đã cắt bỏ hơn nữa những chứng từ ấy đi.
II- Vụ án Thiếu Tá Đặng Sĩ trước toà án Cách Mạng.
Biến cố đài phát thanh Huế xảy ra đêm 8-5-1963. Từ đó đưa đến sự sụp đổ chế độ TT Ngô Đình Diệm ngày 1-11-1963. Nhưng mãi đến 2-6-1964 mới được đưa ra xét xử tại Sàigòn. Tức là hơn một năm khác với vụ án Trung Tá Vương Văn Đông và ông Ngô Đình Cẩn bị đem ra xét xử ngay và lãnh án tử hình.
Thời gian càng kéo dài ra thường có lợi cho bị can, tránh được những sôi nổi khi sự cố còn nóng hổi. Thứ hai, phạm trường là Huế, trung tâm đầu não của biến cố 8-5-1963, cứ sự thường tội đâu xử đấy. Nhưng cũng không ai cấm được tòa án thay đổi chỗ xử án để cho toà án được độc lập hơn, tránh sức ép của dư luận quần chúng. Viện Chưởng lý tòa án quyết đinh xử ở Sàigòn để tránh ‘ Sợ gây hoang mang dư luận’’. Theo nguyên tắc có 3 trường hợp: (1)Xử tại nơi xảy ra phạm pháp. (2)Toà án tại nơi can phạm bị bắt. (3)Toà án tại nơi can phạm bị giam giữ.
Xử Đặng Sỹ là chuyện nhỏ, cân bằng hai thế lực tôn giáo trong lúc này là chuyện lớn. Các chính phủ quân nhân đều quá yếu nên phải di giây chứ biết làm sao? Đặc biệt là chính phủ Nguyễn Khánh.
Trước ngày Đặng Sỹ ra toà một tuần có bài báo trên tờ Lập Trường: “Đồng bào Huế và Trung Việt nghĩ sao? Đặng Sỹ ra tòa tại Sàigòn. Đối với dư luận xứ Huế:’’ Vụ thảm sát tại Đài phát thanh chỉ là bước cuối cùng của cả một chương trình tận diệt tôn giáo. Dân chúng đã quá biết điều đó rồi. Lúc xử Ngô Đình Cẩn, tất cả các báo Sàigòn đều viết rằng nhân dân đã xử ông Cẩn trước khi tòa án xử. Đối với Đặng Sỹ cũng vậy, nhân dân đã xử rồi chứ đâu có chờ đến tòa án Cách Mạng?
Vì thế Đặng Sỹ trước mắt người dân xứ Huế đương nhiên là một tội phạm. Rõ ràng như thế, mang xe tăng đến trước đài phát thanh, rồi ùm ùm, súng nổ, lựu đạn nổ rầm trời. 8 mạng trẻ con chết thê thảm.? Mọi người đêm đó đều trông thấy. Chối cãi đi đằng nào?
Vậy mà hơn 40 năm, chúng ta vẫn phải bắt buộc nhìn lại.
Nhưng nhiều người muốn truy đến cùng đằng sau Đặng Sỹ là ai ? Ai ra lệnh? Một phóng viên đã mập mờ đưa ra mà như thể không đưa ra: “Chúng tôi không muốn dành quyền phán xét của tòa án như một hai tờ báo ở Sàigòn đã làm, vì vậy chúng tôi không muốn bắt chước họ nêu tên nêu tuổi chánh phạm ở đây. Tên tuổi đó không phai mờ trong lòng dân chúng Huế được đâu? Không bao giờ.’
Theo như câu nói trên thì dân chúng Huế biết rõ, biết chánh phạm là ai rồi?
Cuối cùng, chính quyền nghiêng về giải pháp đem Đặng Sỹ về Sàigòn xử. Chỉ tiếc một điều là Toà án Cách mạng không xử Đặng Sỹ tại Huế, là nơi Đặng Sỹ phạm tội, để đồng bào, những người đã nhìn thấy sự thật trước mắt, sự thật ngày hôm nay vẫn còn hiển hiện trước mắt, tự mình lắng tai nghe thử những người xử án, nhân chứng và bị cáo nói gì trước tòa án về những sự việc đã xảy ra.
Cho nên thật ra không phải người ta sợ hắn chết mà người ta chỉ sợ hắn không chịu im lặng để chết mà thôi. Chú thử nghĩ nếu ra giữa tòa mà hắn cà rịch cà tang khai hết những thượng lệnh mà hắn đã nhận để thi hành thì có tọa họa nó ra hết không. Người ta đang la làng lên là vì rứa….. Nếu phải chết, tội chi mà y chết một mình, y sẽ khai tùm lum ra hết. Nếu không thì phải tìm cách cho y đừng nói. Chú học lịch sử còn nhớ vụ Nuremberg không? Biết bao nhiêu tội phạm chiến tranh tự tử trong ngục trước trước khi bị đem ra xử… Mình lo cho Đặng Sỹ là vì rứa.(Nguồn : Báo Lập Trường tháng 6-64)
Vì thế, việc xử Đặng Sỹ đã làm nhiều người thất vọng đến độ nghĩ rằng:’’ Trước hiểm họa Cộng Sản, trước viễn tượng Cách Mạng sụp đổ, lòng tin sụp đổ, những chữ của chúng tôi đang chứa đầy tủi nhục của nhân dân xứ Huế, của những người đã vùng dạy làm cách Mạng từ ngay sau đêm thảm sát Đài phát thanh, để rồi ngày nay thấy mình bị phản bội’’. (Lập Trường 6-6-64)
Xử không khéo là lòng tin vào cách mạng sụp đổ và cảm thấy bị chính quyền phản bội?
TT Trí Quang đã đưa ra một liều thuốc giải vừa để gỡ rối vừa để trấn an dư luận, thày lúc đó đang ở Sàigòn xin khoan hồng cho Đặng Sỹ đồng thời có đánh một công điện ra Huế mà nội dung như sau: ’’Chúng ta chủ trương khoan hồng cho ông ấy thì không cần quan tâm đến những chi tiết khác làm gì”
Tha thì không thể tha mà tội chết cũng không thể chết. Đó là cái thế của Đặng Sỹ.
Có nghĩa là thực sự đây là một vụ án chính trị. Và dựa trên sắc luật 4-64 ngày 18 tháng 2, năm 1964 thiết lập tòa án Cách Mạng dưới thời tướng Nguyễn Khánh. Luật này có ‘’hiệu lực hồi tố’’ (rétroactive effect ). Và vì thế đã có một danh sách 267 những bị can phải ra trước tòa án Cách mạng. Trong đó có những vụ án nổi bật như Phan Quang Đông (cơ quan đặc vụ và tình báo) và Dương Văn Hiếu (tư lịnh Cảnh sát đặc biệt)
Xin trích dẫn lời Lý Chánh Trung trên tờ Tìm hiểu về tình hình lúc đó với nhan đề: ‘’ Lọan để trị’’ Vì rằng từ mấy tháng nay, thành tích duy nhất của ông Khánh sau ngày chỉnh lý bị đạp dổ, người dân miền Nam đã nếm được cái thú vị của Tự Do xuống đường, tự do đập lộn, chém giết, nói láo, bêu xấu. Muốn gì cứ việc xuống đường. Xuống đường là thắng trận. Hoan hô dân chủ. Thật không có cái chính quyền nào nhiều thiện chí bằng cái chính quyền này: xum xoe chạy từ nhóm này đến khối kia, vuốt ve hứa hẹn để làm vừa lòng tất cả mọi người’’.
Nhưng tội thay, không ai vừa lòng cả.
Ở Huế có cái Hội đồng Nhân dân Cách Mạng (rồi cứu quốc) mà thành phần chủ yếu là một số giáo sư đại học. Hội đồng này đã cực lực phủ nhận tam đầu chế Minh-Khánh-Khiêm. Thế rồi người ta thấy ông Minh và ông Oánh lẽo đẽo ra Huế để * thỉnh ý* Hội đồng đó. Hội đồng thương thuyết tay ngang với chính phủ. Tại nhiều tỉnh miền Trung, những hội đồng tương tự được thiết lập và người ta đã chứng kiến những tấn bi hài kịch của những người dư đảng cần lao đến đầu thú nơi ông Tỉnh Trưởng thì được ông Tỉnh gởi qua Hội Đồng, đến Hội đồng thì được trả về tỉnh’’
Khung cảnh phiên tòa xử án:
Phiên tòa do ông Lê Văn Thụ, một thẩm phán kiến thức uyên thâm, đức độ thanh cao và phong thái lịch sự, nhã nhặn, ai cũng khâm phục, cũng là người từng xử tử hình ông Ngô Đình Cẩn ( Trích Luật sư, Nghề hay Nghiệp, Ls Võ Văn Quan) ngồi ghế Chánh Thẩm, Trung Tá Nguyễn Văn Đức, Chưởng lý TACM ngồi ghế Công tố. Ông là người đã đưa Phan Quang Đông và Ngô đình Cẩn đến cái chết. ‘’ Ông đến đây với hào quang chiến thắng trong vụ xử án Phan Quang Đông vừa qua. Lúc xử Phan Quang Đông, ông mới là Thiếu Tá . Và trong phiên xử này *xử ông Ngô Đình Cẩn*, ông chững chạc tự tin, phần thắng, khi sẽ đổi một bản án tử hình như đã nắm chắc trong tay. (Trích Luật sư, Nghề hay nghiệp). Luật sư biện hộ là Nguyễn Khắc Tân.
Bình thường, những phiên tòa như thế này sẽ có đông người đến nghe lắm. Như trong phiên tòa xử ông Ngô Đình Cẩn ở ngoài Huế :’’Chưa tới 8 giờ sáng, còn hơn một giờ nữa mới họp. Nhưng chắc đã từ lâu một đám đông cả mấy ngàn người chen nhau đứng dưới mưa phùn gió lạnh, trên các đường chung quanh tòa án. Tất cả mọi người, già trẻ, bé, lớn, người nào cũng có vẻ mặt đầy căm thù. (Trong Luật sư, Nghề hay Nghiệp...). Sau đó, vụ xử đã được đưa vào Sàigòn một cách kỳ cục. Không khí Sàigòn khác hẳn :’’Nhưng khác hẳn quang cảnh căng thẳng, sôi sục không khí đấu tranh chung quanh Toà án Huế lúc trước, công chúng Sàigòn chỉ đứng thưa thớt trên các đường gần pháp đình và chỉ có vài người hiếu kỳ mà thôi’’.
Khung cảnh pháp đình Sàigòn sáng 2-6-1964 là một quang cảnh vắng lặng, khác hẳn hôm xử ông Ngô Đình Cẩn. Trong pháp đình chỉ có một số ký giả và, đội quân danh dự cùng một vài thân nhân và một vài phật tử. Có thể dân chúng đã quen thuộc, đã hết hào hứng như hồi xử ông Cẩn. Điều này chỉ có lợi cho phía bị cáo là Đặng Sỹ. ( Trích tờ Lập Trường..)
Ông Chưởng lý cho biết nhân vật quan trọng hàng đầu cần ra làm nhân chứng là TT Trí Quang. Nhưng TT Trí Quang đã từ chối không ra làm nhân chứng trước tòa buộc tội bị can. Trả lời ký giả báo Dân Ta, TT Trí Quang cũng xác nhận việc này. Không biết việc từ chối như thế có hợp pháp không? Sự từ chối của một nhân chứng quan trọng như TT thì kể như cái toà án đó giá trị pháp lý còn lại là cái gì? Sau này TT Trí Quang cũng từ chối ra trước toà án Mặt Trận xử 26 can phạm trong vụ chính biến Đà Nẵng mà chính TT nhận là người lãnh đạo và trách nhiệm?
Thật sự thì miền Nam trong những tình huống như vậy chỉ cho thấy tòa án thiếu một thẩm quyền pháp lý, thiếu cái uy quyền thượng tôn pháp luật của tòa. Uy quyền quốc gia không còn nữa.
Đặc biệt thân nhân của dân sự nguyên cáo, tức gia đình các nạn nhân trong biến cố đài phát thanh gần 20 người, nhưng không có ai lên tiếng đòi bồi thường cho gia đình họ và để tùy tòa quyết định.
Và theo phái viên Từ Nguyên, đại diện tờ Lập Trường ngoài Huế Họ, những đại diện các gia đình nạn nhân là những người đau khổ nhất và ngày hôm nay đang là những người sung sướng nhất, vì đã hy sinh cho chính pháp.
Phiên tòa bắt đầu 9 giờ, nhưng phải đợi đến gần nửa giờ sau, bị cáo Đặng Sỹ mới tới. Đặng Sỹ bước vào với binh phục sĩ quan cấp tá đàng hoàng, lúc đó phiên tòa mới bắt đầu.
Có một điều kỳ ngộ, chỗ cái ghế gỗ dành cho bị cáo mà Đặng Sỹ ngồi thì trước đây ông Cẩn đã ngồi cùng ở một chỗ ấy. Cùng một phiên tòa của tòa án cách mạng, cùng là những người liên quan đến chế độ ấy, cùng có thể nhận một bản án tử hình. Nhưng thái độ hai người có khác. Ông Cẩn ngồi đó không nói gì. Im lặng từ đầu đến cuối. Còn ông Đặng Sỹ tỏ ra bực tức và có dịp được nói là nói thả dàn. Cứ được hỏi đến là ông có dịp được phân vua hoặc nói về những thành tích chống Cộng của mình.
Vấn đề thủ tục pháp lý
Mở đầu phiên xử, luật sư Tân đã nêu ra khước biện vô thẩm quyền của tòa án cách mạng đối với bị cáo. Đây thật ra chỉ là * bốn món ăn chơi* của thủ tục tòa án mà luật sư thường nêu ra và thường cũng bị ông chánh thẩm bác bỏ ngay tử đầu. Bởi nếu khước biện vô thẩm quyền của tòa án được chấp nhận thì tự nó đã vô hiệu hóa vụ án rồi. Tôi chẳng muốn đi vào chi tiết, chỉ biết rằng Sắc luật 4-64 khi thiết lập tòa án cách mạng có định như sau: ’’ Mưu sát, tội giết người đối lập về chính trị, việc tra tấn cho đến chết’’ Theo luật sư Tân, các nạn nhân là Phật tử, không phải người đối lập. Vậy không thuộc thẩm quyền tòa án cách mạng. Sau đó có cãi qua, cãi lại. Chánh thẩm đình nghị án, vào tham khảo. Và lúc 10 giờ 15, tòa tái nhóm và ông chánh thẩm bác khước biện vô thẩm quyền do l.s Tân nêu lên. (Lập Trường, số 6-6-64.)
Lời khai trước tòa của Đặng Sỹ
Ông chánh thẩm hỏi bị can: Bị can phạm tội cố sát với trường hợp gia trọng, vì trong khi binh lính giải tán đồng bào tại đài phát thanh đã ném hay cho ném lựu đạn làm chết 8 đồng bào, bị can có nhận tội không? Dĩ nhiên là không. Sau đó thì bị can đã trả lời tóm lược như sau:
“Bị can bị bắt từ ngày 24 tháng 11, 1963. Bị biệt giam tại Nha an ninh quân đội trong phòng tối. Bị tra vấn ngày đêm và bị ép buộc phải khai ra là do Giám Mục Ngô Đình Thục và hàng giáo phẩm ra lệnh cho tôi đàn áp tôn giáo. Xin Toà ghi nhận cho tôi chỉ là cấp thừa hành, chế độ nào cũng phải thừa hành lệnh cấp trên của tôi sai phái. Trước hết ông Tỉnh Trưởng áp dụng dụ 57A trưng dụng tôi, rồi ông Tư lệnh vùng” Về điểm này, Ellen J. Hammer cũng viết tương tự :’”Một áp lực buộc Đặng Sỹ phải tố cáo TGM Thục, lúc đó đang sống ở ngoại quốc, đã đích thân ra lệnh cho ông bắn vào đám đông. Nhưng ông đã từ chối ( Trích trong Bàn tay Hoa Kỳ.. trang 110)
Tôi không phạm tội cố sát vì tôi chỉ nhận lệnh của cấp trên. Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm đã cung cấp phương tiện cho tôi. Lực lượng tiểu khu của tôi chỉ có 18 người sĩ quan và quân nhân.
Đêm 8 tháng 5, 1963, Tôi đã gọi điện thoại cho Cảnh sát tăng cường. 20 giờ, họ cho biết không đủ quân số. Tôi cũng đã gọi cho ông Tỉnh trưởng 5 lần, không gặp. 8 giờ 30 tối, tôi tới văn phòng ông Cẩn, có Đại uý Phu, phụ tá tiểu khu trưởng. Sau đó gặp ông Đẳng, tỉnh trưởng, ông Đạm, Ông Trọng, Ông Vang. Nhận được điện thoại của ông Ngô Ganh, quản đốc đài phát thanh yêu cầu can thiệp gấp, đồng bào tới đông đảo. Ông Tỉnh trưởng nói đồng bào không trật tự, yêu cầu Thiếu tá xử dụng quân đội giải tán. Tôi xin giấy trưng dụng. Ông Tỉnh trưởng nói, yêu cầu Thiếu Tá giải quyết gấp kẻo đài phát thanh bị phá, ngày mai sẽ có giấy điều chỉnh.
Tôi cũng gọi cho Đại Tá Đỗ Cao Trí, tư lệnh sư đoàn 1. Đại tá Trí không có mặt. Đại tá Lê Quang Hiển phụ tá yêu cầu xin lệnh tư lệnh vùng. Sau khi trình tư lệnh, Thiếu tướng có nói: quần chúng tự động biểu tình, xâm phạm công quyền, Thiếu tá có bổn phận đem binh sĩ giải tán và ông cấp cho một đại đội BB ở trung tâm Phú Bài.
Tôi cấp phát lựu đạn MK3, lựu đạn này tôi đã xử dụng để huấn luyện cho thanh niên chiến đấu có sự chứng kiến của Đại tá Trí.
Lựu đạn Mk3 không gây chết người, thường dùng cho nổ để huấn luyện cho Thanh niên chiến đấu, thanh niên Nam Nữ.
Tôi đã dùng một chiến xa Bảo An đi trước mở đường, binh lính theo sau. Xe đến cách quân trấn 50 thước, bị chặn đường… Tôi ra lệnh cho xe tiến lên, cán xe mo bi lét. Rồi nghe có hai tiếng nổ lớn. Tôi tưởng bị Việt Cộng tấn công. Sau đó tôi bắn ba phát súng lệnh chỉ thiên, nhưng đồng bào náo loạn cả lên, binh sĩ cũng chẳng nghe thấy lệnh của tôi.
Nhưng ai ra lệnh? Đặng Sỹ khai không nghe thấy lời kêu gọi của ông tỉnh trưởng. Ông còn la lớn, hai tài xế Ngọc và Khải, sau ngày Cách mạng đã bị bắt giam 3 tháng, rồi được thả và nay còn được thăng chức. Như vậy họ được thăng chức vì những lời khai của họ?
Đặng Sỹ còn nhắc lại phản đối trước tòa về việc giam cẩm thiều nhân đạo và thẩm vấn viên đã buộc: phải khai nhận có ném lựu đạn, hoặc do lệnh TGM Ngô Đình Thục ra lệnh cho y đàn áp Phật giáo. Chưởng lý cho rằng hầu hết các nhân chứng đều khai trước tòa là bị cáo bắn trước ba phát súng, rồi mới có hai tiếng nổ. Chưởng lý cũng cho rằng bị cáo không được mang vấn đề tôn giáo ra đây, bị cáo theo tôn giáo nào không thành vấn đề.
Cả phòng như im lặng.
Theo ông chưởng lý, đa số các nhân chứng trong phiên xử này đều khai bị cáo có bắn 3 phát súng lục trước khi có tiếng nổ lớn. Riêng chỉ có mình bị cáo khai có hai tiếng nổ lớn trước khi bắn ba phát súng.. Ông Chưởng lý nói tiếp, công tố viện đã đưa ra một số nhân chứng tối đa, không lẽ các nhân chứng đều có thù oán với bị can cả sao?
(Người viết có đầy đủ các số báo Lập Trường như tài liệu nhân chứng..với chủ nhiệm là Tôn Thất Hanh. Chủ bút Lê Tuyên, Tổng thư ký tòa soạn là Cao Huy Thuần..tóm lược theo Lập Trường, số tháng 6)
Lời khai của các nhân chứng
Tướng Nghiêm, ( bố của các ông Lê Văn Trang và Lê Văn Châu): Có lệnh trưng dụng thì tỉnh trưởng hoàn toàn trách nhiệm không cần hỏi ý kiến quân đội hay tôi. Nhưng tôi cũng có căn dặn tránh đổ máu, dùng các biện pháp xịt nước. Tướng Nghiêm cũng liên lạc với Đại Úy Thiết, chánh văn phòng đại diện ở Huế để ông này liên lạc với Đặng Sỹ. Ông nói tiếp, Thiếu tá Sỹ có quyền xử dụng đại đội cơ giới ở Phú Lộc vì thuộc Bảo An. Riêng đại đội ở trung tâm huấn luyện Phú Bài thì thuộc quyền Bộ Tổng tham mưu chứ không thuộc quyền tôi.
Cứ như lời khai của tướng Nghiêm thì xem ra, ông chẳng có tý quyền hành gì, mặc dầu là tư lệnh quân đoàn. Và vì thế, ông hoàn toàn không có trách nhiệm gì trong vụ nổ ở đài phát thanh.
Ông ra tòa với tư cách nhân chứng chứ không phải một liên đới trách nhiệm với bị cáo, với tư cách chỉ huy cao cấp.
Tuy nhiên, trên thực tế, ông vẫn ra lệnh miệng cho Đặng Sỹ, vẫn liên lạc với Đại Uý Thiết, vẫn liên lạc với Đại tá Hiển. Dĩ nhiên vẫn có những lệnh miệng, hay khuyến cáo. Mà trong nhà binh, lệnh miệng đã đủ là bằng cớ chưa?
Ông Nguyễn Văn Đẳng, tỉnh trưởng: Sự việc xảy ra ở đài phát thanh Huế rõ như ban ngày như một cộng với một là hai. Ông đã nói như thế. Tối hôm đó, tôi đến văn phòng chỉ đạo thì có Trưởng Ty Cảnh sát, TT Công an cho biết đồng bào phật tử đang vây đài phát thanh. Tôi nóí: Nếu có vây, đồng ý khi cần giải tán. Tôi thấy các ông ấy sát khí đằng đằng nên tôi thấy cần nhắc là cần có binh sĩ cải trang để giải tán biểu tình. Mọi người giải tán.
Có một chi tiết khá quan trọng mà Thiếu Tá Đặng Sỹ nêu ra là lệnh trưng dụng của Tỉnh Trưởng lúc đó có ông Hồ Đắc Trọng làm chứng. Ra tòa, ông Hồ Đắc Trọng khai là, tuy có mặt ở đó, nhưng không nghe là ông Tỉnh Trưởng có ra lệnh hay không? Nhân chứng phủ nhận? Vậy lời khai của Đặng Sỹ trở thành vô dụng? Nhưng Hồ Đắc Trọng có khai là có gặp ông Cẩn, ông Cẩn có nói với ông rằng:’’ biểu tình thì phải dẹp, hỏi ông Tướng, ông đại biểu chính phủ mà làm. Lời khai của Hồ Đắc Trọng có thể xóa bỏ nghi ngờ ông Cẩn là người ra lệnh ngầm không? Mặc dầu lúc này có khai gì thì ông cũng đã chết rồi?
Sau đó, ông Tỉnh Trưởng khoe thành tích làm tỉnh trưởng của ông. Điều đó xin lược bỏ. Những điều sau đây qua lời khai của ông khá phù hợp với lời kể lại của TT Trí Quang. Tôi chỉ nói Đặng Sỹ chuẩn bị, chứ không nói trưng dụng. Không phải là tôi có ra lệnh bằng miệng mà tôi trốn trách nhiệm, nhưng bị can cố đẩy trách nhiệm cho tôi. Sự thật là vậy. Theo ông khai trước toà, ông và thày Trí Quang và Mật Nguyệt đang bàn cãi để tìm giải pháp dung hòa thì có tiếng ồn ào. Cả ba đều ra ngoài thì thấy xe tăng tới, xe xịt nước tới. TT Trí Quang ra trước Micro kêu gọi anh em công lực ngưng xịt nước, rồi thầy nhờ tôi nói lại và tôi nhân danh Tỉnh trưởng đừng xịt vì dàn xếp sắp xong. Nói hai câu đó xong, súng nổ và lựu đạn nổ.
Ông có hỏi tại sao lại không nghe thấy? Xe của Đặng Sỹ đậu cách đài phát thanh khoảng 50 chục thước và trong trường hợp ấy có thể không nghe thấy. Chính ông Tỉnh trưởng cũng chỉ đoán là Đặng Sỹ có đứng chỉ huy trên xe ấy qua cái dáng thôi.
Ít ra về điểm này cho chúng ta thấy hai cái piste đi tìm sự thật: Hiện trường là mấy nhân chứng đứng bên ngoài đài phát thanh vả có thấy súng nổ, lựu đạn nổ.
Mặc dù ông Tỉnh trưởng là cấp chỉ huy trực tiếp của Đặng Sỹ, ông cũng chỉ ra hầu toà với tư cách nhân chứng thôi. Như vậy chỉ có mình Đặng Sỹ là tội phạm. Nhưng qua hai lời nhân chứng vừa kể, người ta thấy trước khi vụ nổ đài phát thanh, Đặng Sỹ có trình cấp thẩm quyền, có ngồi lại bàn thảo, có nhận lệnh miệng, có được cung cấp phương tiện cùng với Chỉ huy Cảnh Sát và Công an cũng như tiểu khu phó. Nhưng trước sau, chỉ có mình Đặng Sỹ lãnh án. Trong một vụ việc quan trọng như thế này, có sự điều động nhân sự, có nhận lệnh lạc theo hệ thống quân giai, có hằng trăm vừa sĩ quan, vừa binh sĩ. Một người lãnh án? Tướng Khiêm cho rằng Đặng Sỹ phải bị kết án để vui lòng Trí Quang (Bàn tay Hoa Kỳ, trang 110..).
George A. Carver, nhân viên cao cấp CIA viết năm 1965 : “Tia lửa phát sinh vụ nổ ở Huế năm 1963 đã được châm trong một trường hợp mà các chi tiết luôn luôn sẽ là một vấn đề cho các cuộc bàn cãi trái ngược ” trích lại trong Bàn tay Hoa Kỳ… trang 110.
- Lời khai của Nguyễn Văn Kịch:
Có lẽ lời khai của Nguyễn Văn kịch còn quan trọng hơn bất cứ lời khai nào. Anh Kịch là tài xế của Đặng Sỹ đã khai là khi gặp mụ Luyến, mụ đã căn dặn Đặng Sỹ như thế này: “Cố gắng làm tròn phận sự nhé’’ ( tóm lược theo báo Lập Trường, tháng 6-64)
- Chuyên viên chất nổ.
Thiếu tá Lê Văn Ấn, sở đạn dược nha quân cụ. Ra trước tòa, ông cho rằng Lựu đạn Ak3 Hay Mk3 là lựu đạn tấn công, sức công phá trong vòng 2 đến 5 thuớc. Ông chánh thẩm: Có giống như lựu đạn cay không? Không, đó là lựu đạn tấn công. Ông chánh án – sức công phá của nó có thể làm văng đầu đứt tay? Thiếu Tá Ấn: trong vòng bán kính 2 thước có thể chết, đứng gần văng đầu, tét da, tét thịt. Lựu đạn khi nổ có hai phần: Một phần thực sự bằng giấy cứng, một phần là hỏa pháo cơ bẩm bằng kim khí. Lựu đạn khi nổ tan không còn mảnh nào.
Một đằng Đặng Sỹ nói, lựu đạn nổ không chết người, một đằng chuyên viên chất nổ nói chết người? Giấy cứng trong lựu đạn thì có thể gây chết người hay không? Và có thể gây tác hại bay mất đầu, thân hình dập nát không toàn thây?
Nhưng theo Ellen J. Hammer và theo cẩm nang bộ quốc phòng Hoa Kỳ, khả năng tối đa của lựu đạn MK3 chỉ có thể làm bị thương nhẹ, điếc tai và giật mình. (trích Bàn tay Hoa Kỳ… trg 110)
Cái phần giấy cứng này đặt ra nhiều nghi vấn? Giấy carton có đủ gây sức chấn áp, nhưng có thể làm văng đầu, nát bấy cơ thể được không? Mà tại sao, không mang ngay một trái lựu đạn này cho nổ ngay trước toà? Sức nổ của nó sẽ có tác dụng phân rõ trắng đen ngay? Giết người hay không giết người? Giết banh xác hay mất đầu? ( Tóm lược báoLập Trường)
Theo tôi được biết, người Mỹ hay phóng viên của họ có thể đã quay phim vụ biểu tình trước đài phát thanh. Giá có được mấy thước phim đó thì chuyện trắng đen đã hẳn không còn cần mang ra bàn cãi đến bây giờ?
Theo Chính Đạo, trong Từ cờ đến máu, trích dẫn tài liệu của Gravel, II : 226 như sau :’’ Dù được xem những khúc phim về cuộc đàn áp chứng minh quân lính của Sỹ bắn vào Phật tử. Diệm không thay đổi lập trường.’’. Có một cuốn phim như thế thật? Rất tiếc là trước tòa án, Chưởng lý đã không có được những khúc phim như thế làm bằng cớ? Và nhất là sau này, Trung Tướng Tôn Thất Đính có điều kiện truy lục cũng không kiếm ra được những khúc phim như thế?
Sự thật ở chỗ nào?
Phiên xử vụ án Đặng Sỹ kể là nhanh và gọn, kéo dài từ ngày mồng 2-6 đến ngày mồng 8-6 thì chấm dứt. E. Hammer cũng cho biết khi phiên toà xử xong, luật sư biện hộ cho biết toà không xác định tính chất hay nguồn gốc của chất nổ.
Lời nhận xét này cũng phù hợp với những đối chứng trước toà trong vụ án xét xử Đặng Sỹ vì có những nhận xét khác nhau về sức tác hại của lựu đạn giữa Đặng Sỹ và chuyên viên chất nổ?
Những nhận xét sau đó cho rằng để chiều lòng TT Trí Quang trong vụ xét xử này cần được xét lại, vì trước khi toà án xét xử, TT Trí Quang đã gửi một lá thư xin tha mạng cho Thiếu Tá Đặng Sỹ.
Xem xét lại Hiện Trường thì đúng như TT Trí Quang xác nhận. Các nạn nhân bị chết ngay sát góc cửa lối vào đài phát thanh. Ở dưới nền nhà. Sát góc cửa, có một lỗ thủng bằng cái chén. Các cửa kính đài phát thanh đều bị vỡ, nhưng cửa gỗ đài phát thanh còn nguyên vẹn. Điều này cho thấy rằng chất nổ bằng hơi, gây sức ép chứ không phải bằng mảnh đạn. Mảnh đạn thì sẽ để lỗ trên cánh cửa. Sức hơi thì hoặc cửa vẫn còn đó hoặc có thể làm bay cánh cửa.
Về chất nổ: chuyên viên chất nổ nhìn nhận rằng chất nổ trước đài phát thanh Huế là một loại chất nổ cực mạnh. Là gì thì không biết được, nhưng QLVNCH chưa hề được cung cấp xử dụng. Ngay trong ngày 11-7-1963, Ủy ban liên bộ đã thông báo cho Ủy ban liên phái cho biết các em nạn nhân chết do chất nổ của Việt Cộng. Dĩ nhiên, Ủy Ban liên phái không chấp nhận kết luận này và trong hồ sơ của Nguyễn Lang cho rằng Bác sĩ Lê Khắc Quyến bị ép buộc phải ký biên bản như trên.
Trong phiên toà, ông Đặng Phong, Trưởng ty cảnh sát quốc gia Thừa Thiên cho thấy người Mỹ có dính líu vào biến cố này bằng nhiều cách.
Ông Đặng Phong đã tiết lộ rằng 2 nhân viên của cơ quan tình báo Hoa Kỳ là Scott, người điều hành cơ quan CIA tại Thừa Thiên lúc đó và Bell, người tổ chức chương trình đưa biệt kích xâm nhập miền Bắc có dính líu đến vụ cung cấp chất nổ này. Ông Mullen phó lãnh sự Hoa Kỳ tại Huế đã liên lạc thường xuyên với TT Trí Quang ở chùa Từ Đàm, nhờ giúp in ấn giấy tờ, truyền đơn, chuyển thư từ, tin tức vào Sàigòn hay ra ngoại quốc.. Riêng ông Elble, Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Huế thường đi theo các cuộc biểu tình của PG và công khai chống NĐD.
- Mặt khác, theo bá cáo của Bửu Thắng,
Một công an viên có nhiệm vụ canh gác trong đêm đó. Anh ta báo cáo rằng có thấy một vệt sáng chạy dài từ sát góc bên phải đài phát thanh, bay qua trên đầu những người đang tụ tập, xéo xuống trước cửa đài phát thanh, sau đó là một tiếng nổ lớn phát ra. Khi các chuyên viên võ khí đến thì đã không lượm được mảnh chất nổ nào. Nếu bá cáo của Bửu Thắng nói sự thật thì trái chất nổ bằng Plastic đã được châm ngòi rồi ném vòng tròn qua đầu đám biểu tình đang đứng trên bực thềm, và rơi ngay góc cửa ra vào của đài phát thanh. Nếu trái Plastic rơi vào một khoảng trống thì chỉ phát ra tiếng nổ chứ không gây tác hại nào cả. Nhưng khi trái plastic kia rơi vào sát góc tường, xung quanh lại có người đứng chen chúc chật ních, tạo thành sức ép nên mới công phá mạnh đến thế..
Cũng theo Đại Uý Bửu thì trong cuộc hành quân ở Nam Đồng vào năm 1966. Đại Uý Scott lúc này là cố vấn tiểu đoàn 1-3 từ năm 1965 mới tiết lộ cho biết sự thật. Theo đó, hai người có trao đổi với nhau và Scott cho rằng Hoa Kỳ đã giúp cho Phật giáo nhiều yếu tố thành công trong vụ 1963..trong đo có chất nổ Plastic. (Tài liệu khá dài, 7 trang giấy không tiện viết hết ra Trích Ai giết anh em Ngô Đỉnh Diệm. Quốc Đại từ trang 307)
Các nhà phân tích đều tin rằng chính phủ Ngô Đình Diệm, dù có loại chất nổ đó trong tay, cũng không ngu dại gì đem ra xử dụng trong trường hợp này để tự gây họa cho mình.Trên thế giới, người ta chưa bao giờ thấy một cơ quan nào dùng chất nổ Plastic để dẹp biểu tình. Như thế, ai gây ra vụ nổ để giáng tai họa cho chế độ NĐD? (Trích từ nguồnGiấc mơ lãnh tụ).
-Về tính chất hợp pháp và công lý của tòa án: Thật khó mà bảo đảm tính cách vô tư của một thứ toàn án như thế. Xin viện dẫn ra ý kiến của luật sư Võ Văn Quan, người đã từng biện hộ cho các can phạm trong vụ Caravelle thời ông Diệm, vụ án Ngô Đình Cẩn, Trần Ngọc Châu và vụ án sinh viên Nguyễn Hữu Giao, tự là Giao Bảo Đại, sv tranh đấu Huế và cuối cùng là vụ án bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn thị trưởng Đà Nẵng. Với kinh nghiệm tòa án như thế, lời ông nhận xét đáng được chú ý. Về trường hợp của Nguyễn Hữu Giao được tha bổng, ông viết thế này :’ Tuy biết rằng sự Giao được trả tự do, đó không phải nhờ sự biện hộ của tôi, nhưng tôi cũng thấy ấm lòng và vui mừng (Trích Trong Luật sư..). Về việc TT Trí Quang mời ông biện hộ cho Bác sĩ Mẫn. Luật sư Quan đòi TT Trí Quang phải đến gặp ông. Cuối cùng TT đã đến. Ông đòi ông Mẫn phải viết mémoire để ông dễ nắm sự kiện. Ông Mẫn hỏi xin lệnh TT Trí Quang. TT Trí Quang đã giao cho Giao mang đến luật sư Quan vỏn vẹn có mấy chữ như sau :’’ Anh Mẫn, làm mémoire đi. Ông Già (trong giới thuộc hạ, tiếng lóng ông già để chi TT Trí Quang). Ông viết như sau :’’ Tôi suy đoán rằng TT Trí Quang thừa biết rằng thực sự các đệ tử của ông không cần đến sự biện hộ của tôi. Là người có nhiều kinh nghiệm về hậu trường chính trị, ông thừa hiểu dưới chế độ quân phiệt này, Tòa quân sự chỉ là công cụ của chính quyền trong những vụ án chính trị. Ông muốn có tôi chẳng qua là để thêm hoa lá cành cho các luật sư*gà nhà* của ông mà thôi.’’( Trích luật sư, Nghề hay Nghiệp..) Về việc TT Trí Quang không ra làm chứng trước tòa. Ông viết :’’ Trong thơ, TT tuyên bố sẵn sàng ra tòa khai rõ về những việc đã xảy ra tại miền Trung, vì chính ông lãnh đạo cuộc tranh đấu ấy. Dĩ nhiên tòa không mời TT Trí Quang ra làm nhân chứng để ông không dùng phiên tòa làm diễn đàn chánh trị. Còn truy tố ông, *họ* dám thì đã làm tử lâu. Chưa kể đằng sau tòa án, còn có *những sách nhiễu tiền bạc bỉ ổi, những thủ đọan lừc lọc gian manh*.
Và luật sư Võ Văn Quan đã chua chát lấy lại câu nói của luật sư De Sège khi biện hộ cho vua Louis 16, đã can đảm nói với họ :’ Je viens ici chercher des juges mais je ne trouve que des bourreaux’’. Tôi đến đây tìm những vị thẩm phán quan, nhưng tôi chỉ gặp những tên đao phủ thủ.
Về hai nhân chứng tối quan trọng : TT Trí Quang và Thiếu Tá Đặng Sỹ.
Người ta có thể phần nào gỡ rối về vụ án biến cố đài phát thanh này nếu hai nhân chứng trên, trong tình hình hiện nay, chịu lên tiếng và nói rõ tất cả những gì họ biết. Lịch sử đã trôi qua đi, thời gian như vết bụi phủ mờ những điều đáng nhẽ có thể được sáng tỏ. Nếu nói về trách nhiệm đối với lịch sử thì họ là những người có trách nhiệm hàng đầu. Vậy mà cả hai đã không lên tiếng. Lý do tại sao không lên tiếng thì chỉ có thể suy đoán? Nhưng ngay cả suy đoán thì đem đến kết quả gì?
Người trách nhiệm và nhân chứng quan trọng nhất trong vụ thảm sát trẻ em trước đài phát thanh Huế, ông Đặng Sỹ, nay vẫn còn sống và hiện ở Hoa Kỳ. Tôi có người bạn VP, nguyên trưởng ban biên tập Việt ngữ đài BBC, tôi có viết thư hỏi anh ấy. Anh cho biết, ngay từ năm 1992, đài BBC có tìm phỏng vấn Đặng Sỷ để cho rõ vấn đề, nhưng ông ấy cứ khất lần, rồi tránh né không muốn trả lời. Ông ấy có vẻ tức tối, nhưng tránh né cuộc phỏng vấn, chắc là muốn an phận. Tôi có hỏi thêm là Bác sĩ Trần Kim Tuyến, người đã tâm sự và để anh phỏng vấn, có biết gì hơn không? Câu trả lời là không. Còn chính bản thân anh, Trưởng Ban Việt ngữ đài BBC, nơi có thể có nhiều nguồn tài liệu, anh có thể khẳng định gì về vấn đề này không? Câu trả lời là không thể trả lời có hay không được?
Vì thế bao lâu ông Đặng Sỹ và một số người liên can không chịu lên tiếng, không chịu làm rõ có thể vấn đề vẫn còn đó? Không phải như ông Nguyên Vũ kết luận và nghĩ rằng :’’ cho tới năm 2002, vài người còn nhắm mắt lại mà nguyền rủa quả lựu đạn hay trái mìn của cộng sản hoặc tình báo Mỹ không hể hiện hữu trên’’( Trong Ngàn năm soi mặt, trang 32)
Cho dù thế nào đi nữa, biến cố đài phát thanh cũng như nhiều diễn biến lịch sử khác vẫn có một khoảng trống cần bổ khuyết: Thiếu tài liệu của phía người Cộng Sản như Stanley Karnow viết: “Il fut en particulier très difficile de rendre compte de la guerre du côté Communiste puisque les documents saisis, la propagande… ne racontaient qu’une partie de l!histoire. Je crois que les dirigeants nord-Vietnamiens et Vietcong ont commis une grave erreur en refusant de fournir des informations aux médias ocácidentaux.” (Việt Nam..., trang 420). Ông Nguyễn ngọc Giao trong một số báo Diễn Đàn Paris, xuất bản ở Pháp cũng có ý tưởng tương tự: Bao lâu tài liệu phía CS chưa mở ra cho công chúng. Lịch sử VN vẫn là những mảnh rời rạc.
Phần kết:
Về phần tôi, chỉ có thể nói được rằng: Lịch sử vẫn còn đó. Sự thật nằm ở chỗ nào? Chúng ta có nên nhang khói cho những cái có vẻ như là sự thật không chối cãi được? Và chúng ta ngủ quên trong tiềm thức với những điều tin rằng là xác tín? Mỗi người chúng ta đều khát vọng sự thật và tôn thờ sự thật trong tôn giáo của mình, trong lịch sử đất nước của mình và lịch sử của chính mình bằng cách né tránh những nẻo đường có gai chông, hầm hố có thể đụng chạm đến những điều đã xác tín. Bẽ bàng thay giữa sự thật và điều xác tín thường có khoảng cách mây mù mà ngay ý thức lý trí cũng không soi dọi, soi sáng hết được những góc ẩn dấu, những phân mảnh rời rạc? Bởi vì sự thật thì ở tầm xa chưa nắm được. Còn điều xác tín chỉ là sự thật ảo? Ta khát vọng sự thật, nhưng lại thường sợ hãi sự thật và bằng lòng với xác tín ảo mà ta đã nắm chặt trong tay. Ai nói khác là không được.
Cứ nhìn lịch sử đi để thấy sự thật nằm ở chỗ nào? Có chỗ nào là sự thật? Nhiều khi chỉ là những tình cờ vụng dại, khờ khệch, vô tình. Nhiều khi là những mánh lới gian dối đủ thứ.
- Tác giả Kiều Vĩnh Phúc, tác giả cuốnNhững Huyền Thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm. Theo anh ấy, ông NĐD là người rất trọng nguyên tắc: Cấm treo cờ tôn giáo ra ngoài. Có lần ông Diệm xuống phi trường, thấy bọn khuyển nho nịnh bợ treo đầy cờ tòa thánh Vatican. Ông không xuống máy bay, đòi dẹp hết ông mới xuống. Ông không bao giờ có ý định diệt Phật Giáo. Những người viết thiếu trung thực thường đưa ra cái luận điệu đó để kết tội ông mà họ khó có thể đưa ra những bằng cớ cụ thể. Ngay như ông Nhu khi đi săn về từ Đàlạt được ông Cao Xuân Vỹ cho biết chuyện, ông Nhu lẩm bẩm :’’ Mình chết rồi, hắn đưa tôn giáo vào trong chính trị là mình chết rồi.. Chuyện ni mình khó gỡ lắm.. Đây là cái đại nạn cho chính phủ.’’. Và hai cái kẻ châm ngòi, đặt chất nổ là bà Ngô Đình Nhu và GM Thục.
- Những người làm chính trị như ông Diệm, ông Nhu và cả ông Cẩn, chẳng ai ngu dại triệt hại Phật Giáo một cách ngu xuẩn để gây ra kiếp nạn. (Xem Vĩnh Phúc, Những Huyền thoại về... từ trang 280-299).
Và đây là ý kiến của TT Tâm Châu nhận xét về ông Diệm qua trả lời phỏng vấn trực tiếp từ Luân Đôn sang Canada của BBC:
VP: theo Hoà Thượng , TT Diệm và ông Nhu có ý kỳ thị Phật giáo hay không?
TT Thích Tâm Châu: “Thực ra, đối với TT Diệm khi đó tôi có gặp thì biết, ngài là người nho học. Ngài có tinh thần dân chủ hơn. Còn vấn đề kỳ thị thì tôi không dám nói có hay không? Chắc chắn thì tôi thẳng thắn nói rằng ở cấp trên thì đương nhiên là hiểu biết rộng hơn cấp thừa hành dưới…Hồi đó, sự phát triển của Phật giáo nói chung, mà điển hình là sự phát triển các chùa chiền có gì trở ngại không? Thực ra không có gì trở ngại. Nó chỉ có vấn đề trong sự bình thường chỗ nào làm chùa mà xin phép thì được xét thôi. Chung chung không có gì cả’’ ( trích Những huyển thoại…của Vĩnh Phúc trang 296).
- Những lòi không kết luận.
Chúng ta là nạn nhân của những sự thật!!! và đôi vai chúng ta nặng trĩu những gánh nặng oan trái của gian dối, tuyên truyền, bịa đặt của lịch sử: Lịch sử thời nhà Nguyễn, lịch sử trước 55 ở hai phía và sau 1975.
Phía bên quốc gia, chúng ta có nên đọc Trần Văn Đôn, Đỗ Mậu, Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên hay Tôn Thất Đính? Bên kia ca tụng cái tập thể, cái Đảng thì bên này suy tôn cá nhân mình với những hào quang chiến thắng tự mình thiết chế lấy và tự đeo vào cổ? Hay là chúng ta nên bằng lòng với những cuốn sách của những người sĩ quan cỡ trung úy đại uý như Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Trương Duy Hy?
Nếu độc giả đọc bài này mà không đồng ý với tôi điều gì là quyền của quý vị. Quyền nắm giữ sự thật?
Còn tôi thì vẫn có thể nghêu ngao sự thật nằm ở chỗ nào?