Tựa bài viết này cũng là tên một tác phẩm của Cao Xuân Huy, một sĩ quan Thuỷ quân Lục chiến, viết về những ngày cuối cùng của cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam, nơi ông chiến đấu cho đến khi cùng nhiều đồng đội bị bắt làm tù binh vào cuối tháng 3 năm 1975.
Với nhiều người Việt, nhất là những người lính Việt Nam Cộng hòa thì tháng 3 năm 1975 đánh dấu sự bắt đầu một khúc quanh lịch sử, với Ban Mê Thuột rơi vào tay bộ đội cộng sản ngày 10 tháng Ba, từ đó lãnh đạo miền Nam có những quyết định di tản chiến thuật sai lầm đầy máu và nước mắt, từ cao nguyên về Nha Trang, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để rồi dẫn đến một ngày cuối tháng Tư đau buồn.
Tác phẩm “Tháng Ba gãy súng” được xuất bản năm 1985, sau khi tác giả vượt biển và được định cư tại Mỹ năm 1983.
Cao Xuân Huy nhập ngũ năm 1968, khi vừa tròn 21 tuổi, theo lệnh tổng động viên được ban hành ở miền Nam sau các đợt tấn công của cộng sản vào Tết Mậu Thân.
Đây là cái nhìn về những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam qua con mắt của một sĩ quan trẻ thuộc một đơn vị được coi là tinh nhuệ nhất của quân đội cộng hòa, của cựu trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Tiểu đoàn 4 Thuỷ quân Lục chiến.
Trong lời mở đầu của tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”
Câu chuyện được ông ghi lại là khoảng thời gian từ 15 tháng Ba, lúc tác giả đang nghỉ phép ở Sài Gòn và tìm cách trở về đơn vị hiện đóng quân ở cây số 23 phía bắc Huế, cho đến ngày 27 tháng Ba, khi ông theo đoàn tù binh gồm những người lính Việt Nam Cộng hòa vừa bị bắt sau một cuộc rút lui vô cùng ngỡ ngàng theo lệnh cấp trên.
25 tháng Ba, 1975 Huế rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Những người lính không được lệnh bảo vệ mà phải rút lui, trong đó có đơn vị của trung úy Cao Xuân Huy đang nằm chờ ở bờ biển để được di tản vào Đà Nẵng. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng Ba, ông và những người lính còn lại của đơn vị bị bắt làm tù binh.
Được dẫn đi dọc Quốc lộ 1 từ Huế về hướng bắc và trên đoạn đường đó nhiều tù binh đã bị bộ đội xử bắn tại chỗ. Cao Xuân Huy thoát chết là nhờ số mệnh, nhờ ông ngoại phù hộ như tác giả đã kêu cầu nhiều lần khi đối diện với tử thần.
Ông đã sống để kể lại những gì mình chứng kiến trong 12 ngày đêm ở tuyến đầu miền Nam Việt Nam qua cách viết chân thực, trong đó rổn rang những tiếng chửi thề, ngập hơi rượu, tình đồng đội và những cái chết nhẹ tựa lông hồng là điều rất thực về người chiến binh trong đơn vị của ông.
Những kinh hoàng của cuộc triệt thoái – hay rút lui, di tản chiến thuật – được kể lại bằng ngôn ngữ thật nhất. Máu, thịt vương vãi. Đầu chẻ làm hai. Người chết dưới xích xe tăng, chết giữa thành sắt của những con tàu. Những người lính bất tuân lệnh bị xử bắn ngay tại chỗ. Những người lính Thuỷ quân Lục chiến can trường không muốn để bị địch bắt làm tù binh, trên đường rút lui không còn hi vọng, vì biết đã bị bỏ rơi, nên cứ ba bốn người ôm nhau rồi cho nổ lựu đạn để cùng chết.
Khi chờ di tản đơn vị có những chuyện khó ai hiểu được. Một cô sinh viên văn khoa Huế với đầy đủ giấy tờ chứng minh, bồ của một người lính, cứ nhất định đòi đi theo người tình và thỉnh thoảng khóc lóc lớn tiếng, vái lạy tứ phương khiến có người nghi ngờ cô là cán bộ cộng sản được gài vào đi theo đơn vị. Hay hình ảnh một nhà tu đầu trọc, mặc áo cà sa đeo súng đi bắt tù binh Việt Nam Cộng hòa.
Câu chuyện lịch sử quân đội mà Cao Xuân Huy muốn ghi lại là một lữ đoàn Thuỷ quân Lục chiến, binh chủng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bị một đại đội Việt Cộng bắt làm tù binh. Sự thất bại nhục nhã đó là một dấu hỏi lớn mà lãnh đạo miền Nam phải trả lời cho những thế hệ mai sau.
Sau “Tháng Ba gãy súng” xuất bản lần đầu năm 1985, Cao Xuân Huy chỉ viết thêm một tác phẩm nữa là “Vài mẩu chuyện” phát hành trong năm 2010, vài tháng trước khi ông qua đời ngày 12/11/2010.
Cũng với lối viết giản dị nhưng rất thực về chiến tranh, về mơ ước hoà bình, về đời sống tù cải tạo mà ông đã trải qua 4 năm rưỡi trong đó. Đọc truyện “Người muôn năm cũ” để thấy ảnh hưởng của chiến tranh tâm lí mà đài Mẹ Việt Nam đã có sức mạnh làm lung lay tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc với giọng cô Hiền thường xuyên nhắc đến chuyện “sinh Bắc tử Nam”.
Câu chuyện gặp gỡ giữa tác giả và một anh bộ đội miền Bắc sau giờ ngưng bắn, vào ngày 28/01/1973, cho thấy người Việt hai miền ai cũng mơ ước đất nước hòa bình. Nhưng anh bộ đội đã phải thay đổi thái độ ngay khi một đồng chí khác tiến đến gần chỗ hai người đang đứng nói chuyện với nhau. Để rồi chỉ chốc lát lại bắn giết mà anh bộ đội gốc Hà Nội chắc đã tử trận sau đó. Bi thảm của chiến tranh tưởng như chấm dứt với Hiệp định Ba-Lê 1973, nhưng nỗi oan nghiệt của hòa bình lại ùa tới.
Hệ quả của cuộc chiến với bao oan hồn của người dân, người lính còn ám ảnh tác giả qua câu chuyện “Chiếc lưỡi câu” ma quái.
Cao Xuân Huy chưa bao giờ viết văn khi còn ở trong nước, ông chỉ viết khi ra đến hải ngoại. Trước ông, trong cuộc chiến đã có những bút ký chiến tranh của Phan Nhật Nam là “Mùa hè đỏ lửa”, “Dựa lưng nỗi chết”, “Tù binh và hoà bình”; của Trang Châu với “Y sĩ tiền tuyến” hay của Nguyên Vũ với “Đời pháo thủ”, “Sau bảy năm ở lính” là những tác phẩm đem đến cho người đọc hình ảnh chiến đấu can trường, cùng tình đồng đội, tình cảm gia đình, thương yêu và mơ ước hoà bình đến trên quê hương của người lính cộng hòa.
Nhưng vì sao những người lính đã chiến đấu trong 20 năm để bảo vệ miền Nam bị buộc phải buông súng. Đến nay vẫn chưa có được những lí giải.
Những ngày cuối tháng Tư 1975, Sài Gòn tràn ngập người di tản từ Đà Nẵng, từ Huế, Nha Trang. Họ như mất thần, khóc lóc kể lại những cảnh chết chóc tang thương trên đường di tản bằng tàu, bằng đường bộ. Những câu chuyện chưa đánh giặc đã phải bỏ chạy làm ngạc nhiên nhiều người. Nhưng dân và cả lính không ai hiểu nổi.
Rồi chiến tranh chấm dứt ở đó vào ngày 30 tháng Tư, 1975. Những người lính ở lại chấp nhận cuộc đổi đời với tù tội trong các trại học tập cải tạo. Bên ngoài xã hội đời sống khó khăn với khoai sắn, bo bo, mì sợi. Văn nghệ sĩ, trí thức bị đàn áp, bắt giam.
Việt Nam dưới ánh sáng xã hội chủ nghĩa trong hơn bốn thập niên qua đã khiến hàng triệu người bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận ý thức hệ cộng sản. Điều nghịch lý là nhiều người từng đứng về phía kẻ thù của Mỹ nay cũng đang rời bỏ thiên đường để mưu tìm cuộc sống nơi đất Mỹ.
Và tầu chiến Mỹ nay đã trở lại Đà Nẵng, như lính Mỹ đã từng đổ bộ lên đây hơn nửa thế kỷ trước, giữa lúc chiến tranh đang gia tăng cường độ để be bờ, ngăn chặn Trung Quốc bành trướng.
Trong chuyến ghé Đà Nẵng của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson hôm đầu tháng 3/2018, thủy thủ Mỹ đã xuống phố hát “Nối vòng tay lớn” và mời gọi dân chúng cùng đồng ca. Đây là bài ca đã được chính tác giả là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát trên đài Sài Gòn trưa ngày 30/4/75 để chào đón bộ đội cộng sản vào thủ đô Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Xem cảnh này trên trang Facebook của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink, tôi thầm cám ơn những người lính cộng hòa đã bảo vệ miền Nam và tự hỏi những người bộ đội cộng sản có bao giờ nghĩ đến hệ lụy mà họ đã để lại cho đất nước từ ngày 30/4/1975 đến nay.
Bùi văn Phú
Đã là lính với nhiệm vụ và bổn phận cao cả, chí nam nhi trong thời loạn ly, xa người thương, đàn em thơ , cha mẹ già sau lưng và chơi hết mình cho thỏa chỉ tang bồng hồ thủy….Đời lính là vậy thì còn cần chi những hòa nhoáng cuộc đời, những hòa nhoáng đó có oai hùng bằng những vằn lửa dỏ của đạn đồng và bom rơi…những bông hoa kia sao bằng bằng những đóm mắt hỏa châu.” quân mạc tiếu”
Cao xuân huy có là lãnh đạo lúc đó cũng giống ông Thiệu thôi. Mỹ đã lên kế hoạch đi tán 2 vùng giao cho vc ranh giới là chân đèo cù mông nhưng chúng ta chạy nhanh quá , tụi vc ăm miếng bánh gần hết lẽ nào nhã ra cho nên 2 trái bom CBU được ném xuống xuân lộc cảnh cáo vc để Mỹ ra đi an toàn ,Vnch là con chốt thí ,nếu ông Thiệu đừng quá tin người Mỹ mà tìm kế hoạch khác cho Miền nam sau khi Bà Nguyễn thị Bình bắn tiếng là nên kết hợp chống tụi Bắc kỳ nhưng ông TT nhà ta đa nghi không để ý. Tóm lại chỉ có the dùng 2 quân đoàn thay vì rút đánh thí mạng ra Bắc thì có thể cứu Miền nam sau bao nhiêu năm cứ nằm chờ địch đánh chúng ta không thua cũng uổng , đâu có ông TT nào muốn đánh ra Bắc vì 2 cái hiệp định giẽ rách chùi đít nó ràng buộc còn đám Bắc kỳ nói coi ra gì ./
Cao Xuan Huy là sĩ quan trẻ của Binh chủng TQLC.Tôi có may mắn được quen người lính TQCC nầy. Anh là tiêu biểu cho những người lính Miền Nam.Đánh giặc như đi trong mơ ! Đánh giặc mà vẩn viết thư tình !Đánh giặc như nhạc sĩ viết bài ca! Đánh giặc vì yêu Tự Do và thương Giống nòi ! Đánh giặc không phải cho Bác và Đảng. Không phải còn Đảng còn mình . Cám ơn BVP đả nhắc kỷ niệm đẹp về một người Lính ,mà tôi có dịp quen và biết./
“…..Lãnh-đạo miền Nam có những quyết-định di-tản chiến-thuật sai lầm….” ? Nếu Cao-Xuân-Huy là lãnh-đaọ miền Nam lúc bấy giờ. Đường lối hành-động. Đường tiến sát di-tản chiến-thuật nào là tốt nhất ? Cao-Xuân-Huy có hiểu : Đường tiến-sát tốt nhất tối thiểu phải hội đủ hai điều-kiện gì không ? Xin lỗi. Ông nào lúc đó cũng thế thôi ! Không Xăng hết đạn do Bạn bội-ước làm được gì hơn ? Ngoài lề một tý ” Tại sao nhiều Tổng-Thống Mỹ kế tiếp sau cuộc chiến tại Việt-Nam, không công nhân sư hy-sinh của Quân-nhân Mỹ tham-chiến tại Việt-Nam ? Những Quân-Nhân Mỹ đã chết đó là do Họ tự ý xâm-lăng Việt-Nam như Việt-cọng nói ? Quốc-Hội và Chính-phủ Mỹ không biết ? Kể cả khi rút quân và phản-bội đồng-minh VNCH cũng tự Họ ? Sao bây giờ Tổng-Thống Mỹ D. Trump lại có Nghị-quyết mang tính lịch-sữ “CÔNG NHẬN SỰ HY-SINH CỦA NHỮNG QUÂN-NHÂN MỸ THAM CHIẾN TẠI VIỆT-NAM TRƯỚC NĂM 1975 LÀ NGHĨA-VỤ BẢO-VỆ TỰ-DO CHO THẾ-GIỚI” Không nhắc đến VNCH ? Có ai biết được tại sao không ?
Hình như tôi chưa nghe TT thống Mỹ nào không công nhận sự hy sinh của người lính Mỹ trong cuộc chiến VN như thầy Haile nói.
Không lên tiếng. Không ban hành một văn-bản công nhận tính lịch-sữ của cuộc chiến. Đã giết chết trên sáu mươi tám ngàn Quân-nhân Mỹ ! Còn số quân-nhân Mỹ mất tích ? tại Việt-Nam. Mãi cho đến đời Tổng-Thống Mỹ thứ 45 D.Trump mới có NGÀY KỶ_NIỆM QUÂN-NHÂN MỸ THAM-CHIẾN TẠI VIỆT-NAM TRƯỚC NĂM 1975. !!!
Quân lính Mỹ chết chỉ 58 ngàn mấy trăm thôi. Thêm 10 ngàn nữa tức trên 68 ngàn, VC nó nghe nó…cười ăn mừng!
Mỹ cũng như Việt-cọng đồng dạng mà Cố Tổng-Thống NGUYỄN-VĂN-THIỆU đã nói : “ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ MỸ VÀ VIỆT-CỌNG NÓI. HÃY NHÌN NHỮNG GÌ MỸ VÀ VIÊT-CỌNG LÀM” Con số 58.000 Mỹ nói ! Việt-cọng nói cả trăm ngàn và hàng ngàn máy bay Mỹ bị bắn rớt tại Bắc-Việt-Nam ! Do đó con số 58 hay 68 cả hai chưa hẵn đã đúng. Nhiều sự-kiện thật của chiến-tranh Việt-Nam. Nay “BẠC TRẮNG CHì ĐEN” Đã hiện nguyên hình. Nhưng Mỹ và Việt-cọng đâu có đính-chính….