Khái niệm “Tự diễn biến” đã có từ trước công nguyên

5
Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Gần đây, tôi vô cùng thất vọng khi tình cờ phát hiện ra rằng nhiều bạn bè xung quanh tôi vẫn một mực độc quyền chân lý, vẫn ca ngợi một lý thuyết đã lỗi thời và tìm cách biện hộ cho “chân lý” đó. Hầu hết những người có quan hệ trực tiếp với tôi đều không đồng ý với những gì tôi đã nói trong suốt mấy chục năm qua.
Tuy nhiên, vì tôi có một mức độ uy tín và hiểu biết nhất định, thậm chí có cả một cái “uy” nhất định, nên họ không trực tiếp phản bác tôi. Nhưng “cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Tôi không có ý định nhét “chân lý” của mình hay áp đặt quan điểm của mình lên ai cả. Tôi chỉ muốn giải thích rằng những gì họ được học (hay bị học) có thể không phải là chân lý. Nếu muốn tìm chân lý, mỗi người phải tự tìm hiểu từ nhiều nguồn khác nhau, qua nhiều phương tiện khác nhau. Đừng để người khác nhét “chân lý” vào đầu mình.
Thế nhưng, các bạn ấy vẫn khăng khăng tin rằng những gì họ có trong đầu chính là chân lý.
“Buồn tình”, tôi lại tiếp tục đi tìm chân lý và viết bài này để cùng mọi người suy ngẫm.
“Tự diễn biến” – một khái niệm không hề mới
Khoảng 10 năm trở lại đây, báo chí chính thống của Đảng thường xuyên nhắc đến khái niệm “tự diễn biến” để chỉ một hiện tượng bị coi là tiêu cực: một bộ phận đảng viên có những suy nghĩ không theo đường lối của Đảng.
Tuy nhiên, trên thực tế, “tự diễn biến” vốn dĩ là một phương pháp học hỏi rất tốt, đã được đề cập từ thời cổ đại.
Triết gia Socrates (khoảng 470 TCN – 399 TCN) là một minh chứng điển hình. Ông dành cả đời để tìm kiếm chân lý, đặt câu hỏi về các vấn đề đạo đức và luân lý. Ông nổi tiếng với phương pháp Socrates – một phương pháp chất vấn dựa trên đối thoại, giúp người đối thoại tự nhận ra những mâu thuẫn trong suy nghĩ của mình. Câu nói kinh điển của ông, “Điều tôi biết duy nhất là tôi không biết gì cả”, chính là biểu tượng cho tinh thần tìm tòi và phản biện.
Ảnh hưởng của Socrates sâu sắc đến mức được truyền lại qua các tác phẩm đối thoại của Platon và tư tưởng của Aristote. Ông là biểu tượng cho sự tìm kiếm chân lý, lòng dũng cảm trí tuệ và tinh thần phản kháng trước bất công.
Năm 399 TCN, Socrates bị tòa án Athens kết án tử hình với các tội danh “Làm băng hoại giới trẻ” và “Phỉ báng thần thánh”. Ông bị hành quyết bằng cách uống thuốc độc cây cà độc dược (ciguë).
Dù không để lại bất kỳ tác phẩm viết tay nào, nhưng tư tưởng của ông vẫn được các học trò như Platon và Xénophon ghi chép lại. Đối với Socrates, chân lý không phải là một kiến thức cố định hay tuyệt đối mà là một mục tiêu cần được truy tìm thông qua đối thoại và phản biện sâu sắc.
Ông tin rằng chân lý chỉ có thể được khám phá thông qua quá trình chất vấn, gọi là phương pháp đỡ đẻ tư tưởng (maïeutique). Ông khởi đầu bằng giả định rằng con người không biết gì cả, và thừa nhận sự thiếu hiểu biết chính là bước đầu tiên để đạt đến tri thức.
Nếu chúng ta có sự khiêm tốn trí tuệ, chúng ta sẽ biết nghi ngờ những niềm tin có sẵn và tránh rơi vào định kiến. Chân lý không thể bị áp đặt hay được xem là tuyệt đối. Trái lại, nó phải được khám phá dần dần qua lập luận logic và đối thoại cởi mở.
Tự phản tỉnh chính là tự diễn biến đấy.
“Sống không được suy xét thì không đáng sống.” (Apologie de Socrate – Platon)
Tìm kiếm chân lý đòi hỏi sự suy ngẫm liên tục về hành động, niềm tin và động cơ của bản thân. Ngày xưa, Socrates đề cao “tự diễn biến” như một cách học hỏi để nâng cao hiểu biết, nhưng ngày nay, người ta lại coi “tự diễn biến” là một điều độc hại.
Những bài học từ Socrates và lời khuyên cho người Việt Nam
Socrates luôn liên kết chân lý với đạo đức. Theo ông, cái ác bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết. Những người làm điều xấu thường không nhận thức được điều tốt thực sự.
Socrates bị kết án tử hình vì dám thách thức những “chân lý” truyền thống của xã hội Athens lúc bấy giờ. Ông không áp đặt tư tưởng mà khuyến khích mọi người tự suy nghĩ và tìm ra chân lý cho bản thân.
Tư tưởng của Socrates vẫn còn nguyên giá trị trong thế giới ngày nay, đặc biệt trong việc phản biện chủ nghĩa giáo điều và tư duy cứng nhắc. Thay vì tin rằng mình nắm giữ chân lý, chúng ta nên không ngừng tìm kiếm và hoàn thiện nó qua đối thoại.
1. Thừa nhận sự phức tạp của chân lý
Chân lý không bao giờ là tuyệt đối hay bất biến. Nó luôn chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa. Ngay cả Karl Marx – người sáng lập chủ nghĩa cộng sản – cũng nhấn mạnh rằng phê bình là công cụ để giải phóng tư duy khỏi sự áp đặt của ý thức hệ cũ (Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel).
2. Khuyến khích đối thoại thay vì áp đặt
Sức mạnh của một ý tưởng không nằm ở việc đè bẹp quan điểm khác, mà ở khả năng thuyết phục bằng lập luận logic, đạo đức và thực tiễn.
3. Đề cao giáo dục và nghiên cứu
Tiến bộ chỉ có thể đạt được qua giáo dục mở và nghiên cứu tự do. Phải tránh rơi vào bẫy tư duy giáo điều.
4. Đón nhận phê bình như động lực phát triển
Phê bình, khi mang tính xây dựng, không phải là chống đối mà là cơ hội để hoàn thiện. Thế nhưng, ở Việt Nam, mọi ý kiến trái chiều đều bị coi là “phản động”.
Lời kết
Khi tôi còn trẻ, tôi cũng không biết đến những điều này. Nhưng bằng một phép màu nào đó, ngay từ tuổi 20, tôi đã tự phản tỉnh (hay “tự diễn biến”). Tôi cũng trình bày sự phản tỉnh của mình với một số người bạn thân thiết – những người chắc chắn sẽ đọc những dòng này và làm chứng cho điều đó.
Tôi hiểu rằng sự phản tỉnh của mình có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chính vì vậy, tôi đã “lái” cuộc đời mình đến một nơi an toàn, nơi tôi có thể tự do “tự diễn biến” và viết ra những suy nghĩ của mình.
Chúng ta luôn phải ghi nhớ hai câu nói này:
“Sống không được suy xét thì không đáng sống.”
“Điều tôi biết duy nhất là tôi không biết gì cả.”
Việt Nam là một đất nước nghèo nàn, đặc biệt là nghèo nàn về tư tưởng. Nếu chịu khó học hỏi, chúng ta hoàn toàn có thể tiếp thu những tư tưởng tiến bộ trên thế giới để phát triển đất nước. Nhưng đáng tiếc, chúng ta lại du nhập và áp đặt một tư tưởng đã được thực tiễn chứng minh là thất bại.
Điều đau lòng hơn là ngay cả khi có những người dám lên tiếng – như nhà báo Huy Đức hay các nhà bất đồng chính kiến ôn hòa – thì họ vẫn bị trừng phạt, trong khi xã hội gần như thờ ơ. Điều đó cho thấy tư tưởng của cả xã hội ta có vấn đề rất trầm trọng.
Hoàng Quốc Dũng
Paris 28/02/2025
CHIA SẺ
Bài trướcThớ lợ gian thương

5 BÌNH LUẬN

  1. Tác giả nên đọc thêm về “phản bội”, 1 khái niệm khá quan trọng trong chính trị Mỹ, RINO …

  2. “trong khi xã hội gần như thờ ơ. Điều đó cho thấy tư tưởng của cả xã hội ta có vấn đề rất trầm trọng”

    Tác giả không nên xem nhận định khá đơn giản đến mức chủ quan của chính mình là 1 thứ chân lý . Như tác giả đã nhận ra, sự thật phức tạp hơn tác giả tưởng . Chỉ muốn đưa ra cách nhìn, đôi khi thiên hạ thờ ơ không phải vì tư tưởng của cả xã hội có vấn đề, mà chính tư tưởng của những người như Huy Đức mới có vấn đề, vì vậy thiên hạ thờ ơ

  3. Thẳng Đại Cuội Donald Trump rớt mặt nạ bịp bợm, không thể chối cãi .
    Trong khi tranh cử, thằng Đại Cuội Trump lập đi lập lại những lời hứa cuội rằng nó sẽ kéo giá sinh hoạt xuống ngay ngày nó tuyên thệ nhậm chức 20/1/25 ,
    rằng sẽ có ngưng bắn ở Ukaine trước hoặc vào ngày nó nhậm chức.

    Hôm nay là ngày 28/3, hơn một tháng rồi, hai lời hứa cuội của thằng Đại Cuội Trump vỡ tan như bong bóng nước !!!

    Quan thày của nó là thằng đế quốc Putin tưởng sẽ có thể thôn tính xứ Ukraine trong hai, ba ngày. Hôm nay là hơn 3 năm rồi !!!

  4. thăng khôń naṇ schump tay traí kep̣ cô² tay phai² ch̃ia sunǵ vao` ₫âu’ Tông² thônǵ Ukraine ZELENSKY, băt́ TT ZELENSKY ₫âu` hang` giao ₫ât́ cho POU va` châṕ nhân cho Meo² khai thać quăng mo² . schump tim` cach́ hạ bê tt ZELENSKY theo lơi’ yêu câu cua² POU Giông’ như vc yêu câu` Meo² bắt tt NV Thêu tư` chưć
    Vive VNCH! Vive tt ND Diem!, Vive tt NV Thieu!, Vive l UKRAIN!

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên