Tôi đã đọc Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê với nhiều trăn trở, nhiều đêm mất ngủ, buồn cũng có và thương tiếc cũng có và cuối cùng đi đến một thái độ thở dài với một thứ triết lý bi quan:
Quả đúng là một kiếp người!!!
Quả đúng là một hành trình chữ nghĩa đầy gian lao và khổ cực phải đối đầu với nỗi sợ thường trực hầu như suốt đời. Cái đói no vốn là thiết thân với sự sinh tồn, vậy mà so với nỗi sợ hãi bị theo dõi và ám hại xem ra chả thấm thía gì.
Cuộc đời triết gia Trần Đức Thảo là khổ trăm chiều: Nỗi khổ giữa lý tưởng và thực tế, giữa nhân cách và quyền lực, giữa ta và người, giữa mình và chính mình. Đó là cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ.
Và cuối cùng ông đã vượt thắng được tất cả, vật ngã kẻ thù – vật ngã biểu tượng của trục của điều xấu là: chính Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác xít.
Nhưng nhiều lúc tôi tự hỏi phải chăng ông sinh ra nhầm thời đại và chọn nhầm chỗ cư ngụ, nhầm chế độ do ảo tưởng trí thức, lý tưởng hóa chủ nghĩa cộng sản?
Giả như ông cứ ở Paris trong một bầu khí tự do suy tưởng của giới thượng lưu trí thức Pháp?
Hoặc cùng lắm, ông về Sài Gòn thì cuộc sống và tương lai chữ nghỉa của ông sẽ như thế nào? Đã hẳn là ông sẽ được kính trọng và ông sẽ có 10 cuốn Phénomologie thay vì một cuốn.
Nếu ông ở lại bên Pháp, ông sẽ được chào đón bởi những người trí thức hàng đầu của Pháp về triết học như J.P Sartre và nhóm Les Temps modernes, hay nhóm chủ thuyết Hiện tượng luận như Merleau Ponty hay nhóm cộng sản trong Les enjeux, Révolution và nhất là người học trò đã nhận ông là bậc thầy duy nhất về triết thuyết cộng sản là Althusser.
Sau nữa, ông còn được chào đón và nối tiếp bởi các thế hệ trí thức Việt Nam bậc đàn em như Phạm Trong Luật, Phan Huy Đường, Nguyễn Ngọc Giao sau này.
Nếu đối đế lắm ông về Sài gòn, ông sẽ có chỗ ngồi xứng đáng của một trí thức hàng đầu, ung dung ngồi thao diễn lưu loát bằng tiếng Pháp cho đám môn sinh triết học mà không có mối e ngại họ không hiểu tiếng Pháp.
Và sẽ có những người nối nghiệp ông về triết thuyết Hiện Tượng Luận của Husserl.
Chuyện đó đâu có gì là khó ở Sài Gòn- nơi quy tụ gió bốn phương-. Aristote sẽ có dịp gặp Hégel để bàn về tri thức luận, Karl Marx gặp Boris Pasternak để tranh luận về giai cấp và vấn đề thân phận người. Bụt gặp Suzuki để trao đổi về con đường giải thoát. Jésus ngồi đối luận với Khổng Tử về Nước Trời và trật tự trần thế.
Sẽ là chuyện bình thường có Sartre ở Paris và Sartre ở giữa Sài gòn với hiện sinh chủ nghĩa và Trần Đức Thảo với triết thuyết Hiện tượng luận. Không chỉ có 5 buổi trao đổi giữa đôi bên mà sẽ có những giao lưu tư tưởng thường trực công khai và dân chủ.
Rất tiếc là cuối cùng Sài gòn chỉ còn là mảnh đất rao truyền triết lý hiện sinh một cách rầm rộ chẳng những đối vời J.P Sartre mà còn của Martin Heidegger, Gabriel Marcel và A. Camus nữa..
Và những điều vừa trình bầy trên không phải là chuyện vu vơ về Sài Gòn.
Khi được Trần văn Giàu và Trần bạch Đằng thu xếp vận động cho ông Thảo vào sống ở Sài Gòn. Ông đã ngạc nhiên không ít, ông viết:
‘Mới đặt chân xuống cái thủ đô của miền Nam này, mọi sự đã làm tôi kinh ngạc. Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn nó lại khang trang hiện đại như vậy? Tôi cứ ngỡ cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ-Ngụy bóc lột đến nỗi miền Bắc đã phải ‘cắn hạt gạo làm tư’ để cứu giúp miền Nam cơ mà.. Và mọi người ở đây nói năng cởi mở thoải mái như vậy? Ngay những cán bộ Đảng ở đây cũng có thái độ tự do quá. Họ đãi đằng, giễu cợt tôi, coi tôi cứ như anh mán, anh mường ở rừng mới được về thành phố. Phải nói thẳng ra là có một điều của Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng đến cùng cực.
Đó là những bài hát của một anh chàng nhạc sĩ trẻ của miền Nam, nói đúng ra là của Mỹ-Ngụy chứ không phải của Đảng.
Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả dân tộc ở cả hai miền Nam Bắc.
Giữa những năm tháng chiến tranh một mất một còn ác liệt như thế mà sao anh ta dám cất lên tiếng kêu than như vậy. Những lời ca của những bản nhạc đã làm tôi xúc động bồi hồi không cầm được nước mắt. [1].
Ở đây, xin ghi nhận thêm, khi vào Saigòn, ông có ghé thăm ông Nguyễn Văn Trung nhiều lần. Theo ông Trung, ông Thảo ngỏ ý mượn ông Trung sách của Hegel để tham khảo và nói chuyện do Đại học Tổng hợp thành phố mời.Cũng theo ông Trung, ông Thảo luôn cảnh giác có người theo dõi ông. Ông cho biết: “ tôi bị một nhóm người, ông kể tên từng người- có chức có quyền ở Hà Nội, luôn luôn theo sát tôi từng bước.”
Dư luận cho hay là ông bị bệnh. Ông ghi trong sổ tay là ông T. vị lãnh đạo là nhân viên Phòng II, nhưng không gửi đơn đi. Ông cũng tố cáo hai bạn học cũ ở Pháp làm tay sai cho Pestain trong một bức thư có gửi đi. Ông cũng ngây ngô gửi những thư về Triết học cho Trung Ương Đảng.
Nói cho cùng, điều gì ông còn đáng được trân trọng là những điều ông đã viết khi còn công khai viết, nghiên cứu trong nhiều năm. Và đó là những điều làm ông nổi tiếng ở Âu Châu, đặc biệt là Paris. Nó đóng góp vào gia tài của giới trí thức Pháp vào những năm 1945-1946.
Khi về Việt Nam, Hồ Chí minh đã không trọng dụng và cứ thế khiến ông suy tàn đi..
Trở lại cuốn Hồi Ký, có thể nói trong toàn bộ cuốn Những lời trăng trối, đây là lần duy nhất chỉ một lần thôi ông bày tỏ niềm xúc động và những lời khen trân trọng đối với miền Nam Việt Nam!! Miền bắc cộng sản hầu như tuyệt đối không có trong mắt của Trần Đức Thảo.
Và nếu sự việc xảy ra chỉ khác một chút thôi- cái giây phút gặp Hồ Chí Minh-ông đã nhận ra được con người ấy trong lần tiếp xúc đầu tiên- ông sẽ tránh được những nghịch cảnh đau lòng sau này.
Làm gì còn cái cảnh chuột và người. Cả một đàn chuột rúc, rỉa ông. Ở Hà Nội vào những năm ấy, họ nhất loạt tố cáo ông như trường hợp Phạm Huy Thông với bài: Mặt thật của Trần Đức Thảo.
Ông Trần Đức Thảo với nhân cách cao vời đã không chấp đám học trò. Nhưng nói về trường hợp Phạm Huy Thông, ông bày tỏ như sau:
‘Anh chàng ấy hồi ở Pháp thì tôi có biết, nhưng không thân..Sau này nhân vụ đấu tố nhóm Nhân Văn Giai Phẩm thì Phạm Huy Thông đã ngả theo phe Tố Hữu để tố khổ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ. Cách thức tố cáo, buộc tội tôi như thế đã làm cho y sau này bị xấu mặt cả đám văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những gì mà mỗi trí thức đã viết ra, thì đều phơi bầy cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém của họ’.[2]
Hay bội bạc hơn nữa, cảnh trò tố cáo thầy như trường hợp nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến.[3] Nguyễn Đình Chú.
Và chua chát nhất là bài của của một môn sinh phản thầy: Khắc Thành trong bài Quét sạch nọc độc Trần Đức Thảo trong việc giảng dạy triết học.
Cảnh chuột và Người chỉ có thể xảy ra ở Hà Nội- Và chỉ ở Hà Nội. Ai là chuột ai là Người trong những tên tuổi sau đây:
Có cả một chiến dịch nhằm đánh phá vào một mình ông với các tên tuổi như: Bác sĩ Hồ Đắc Di, giáo sư Phạm Hữu Tước, giáo sư Nguyễn Lân, giáo sư Nguyên Hoán. Trường Giang, Thiều Quang, Ngô Vi Luật, Chu Thiên, Lê Dân.
Cả một danh sách dài biên niên mà Lại Nguyên Ân đã ghi lại[4]
Đấy là món nợ của trí thức Hà Nội mà không một ai trả nổi dù đây đó đã gióng lên những lời xin lỗi. Bởi vì ai là kẻ gây ra món nợ này? Cứ hỏi và câu hỏi cứ trèo lên cao mãi, phải chăng là Tố Hữu? Cũng không phải, Trường Chinh cũng không nốt mà trèo lên đến đỉnh điểm thì còn trơ trọi có một người.
Người đó là Hồ Chí Minh- Đẹp mãi tên Người-.
Vì thế trả nợ cho Trần Đức Thảo không đơn giản và nhẹ nhàng thoải mái như khi trả nợ cho Lê Đạt, Trần Dần..Với Lê Đạt, Trần Dần, chỉ cần cho họ trở lại biên chế, lương bổng, vài cái bằng khen và cho cầm bút thì họ đủ bằng lòng và xóa nợ tất cả.
Nhưng đối với Trần Đức Thảo khi ông đã nhiều lần gọi tất cả lãnh đạo cộng sản là chúng nó- chúng nó tính từ Hồ Chí Minh trở xuống đến Phạm Văn Đồng- thì những nhân sĩ, trí thức, nhà văn lấy tư cách gì mà đòi trả nợ cho Trần Đức Thảo? Cho dù nay ông còn sống, ông cũng không cần ai trả vì theo ông những kẻ tố cáo ông thì tự họ làm xấu mặt họ..
Kẻ tố cáo bỗng nhiên trở thành kẻ bị cáo.
Nói cho cùng, cái dại của ông là chỗ đáng sống ông không chọn như Paris hay Saigon lại chọn Hà Nội. Chọn Hà Nội là tự chọn vào cái chỗ chết. Nhưng đối với ông chết để sống trung thực.
Con đường Paris-Luân Đôn-Praha-Moscou—Bắc Kinh- Việt bắc là con đường không bằng phẳng-chông gai, gập ghềnh ngay từ đầu- mà ông đã tự chọn, cậy cục đảng cộng sản Pháp đến cả lãnh đạo Liên Xô để được về. Chọn nhầm chế độ- một chế độ của tội ác và đọa đầy.
Chọn ai không chọn lại chọn một người mà sau này chính ông gọi là một thứ gian hùng chẳng khác gì Tào Tháo..
Ông đã sống như thế- sống vất vưởng, tủi nhục- vì chính những chọn lựa của mình. Khó mà trách ai được.
Nhiều lúc tưởng ông như một người đi trên mây, dở khùng, dở dại.
Nhiều lúc tưởng chừng bộ máy nghiền cộng sản đã bẻ gẫy ông. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm, rõ ràng đảng sai ông đúng. Vậy mà ông cũng đã có lần cúi đầu thú tội: Ông đã xin lỗi trước đảng và trước nhân dân. Ông cũng đã thú nhận là trong nhiều lần học tập, ông cũng đã phải dơ tay như mọi người hô: Nhất trí, nhất trí.
Ông cũng biết nhẫn nhục, cũng biết sợ chết và hầu như cả đời ông bị ám ảnh về nỗi sợ hãi bị ám sát.
Nhưng khi chết, ông đã để lại một di sản tinh thần vô cùng quý báu- không phải những sách như Phénomologie et matérialisme dialectique(1951)- Sách này đã làm nên danh phận ông- mặc dầu vậy nó có cũng được không có cũng không sao.
Bời vì, thứ chủ nghĩa mà ông đeo đẳng gần như suốt cả cuộc đời nay ông đã rũ sạch. Nó chỉ còn là một món hàng bị phá sản mà chính chủ nhân của nó đã tìm cách bán tống bán táng đi rồi.
Cuối cùng một điều tối quan trọng. Sống có thể ông không làm được gì-. Ông tỏ ra vô ích. Nhưng cái chết của ông chỉ đến lúc ông nằm xuống. Đảng tưởng rằng đã loại trừ được một tên cộng sản quấy rầy- un communiste dérangeant-.
Đảng mới bật ngửa ra đã không khai trừ được ông.
Lúc ông chết mới thật sự là lúc ông sống thật với ván bài lật ngửa.
Ông đã có thể thất bại suốt cuộc đời- dù rất có thể, ngay cả cái cái chết của ông đã bị nghi ngại là người ta đã ám toán ông bằng thuốc độc.
Cứ như đọc diễn tiến mấy ngày cuối đời trong Những lời trăng trối của ông thì phải đi đến kết luận là ông đã bị đầu độc đến thượng thổ, hạ tả và đưa vào bệnh viện cấp cứu thì ngày hôm sau, ông đã tắt thở.
Mặc dầu vậy, vượt mọi toan tính đê tiện của những kẻ thù, ông đã để lại được chúc thư cuối đời qua cuốn Những lời trăn trối.
Đây là sự bất ngờ vượt mọi dự đoán của kẻ thù ông. Ông đã đánh lừa được tất cả mọi người..
Nay tất cả mọi người đều ngỡ ngàng về tập sách Những lời trăng trối…
Ngỡ ngàng là phải, vì những lời trăng trối chết người này- những lời tâm huyết có thể quyết định sinh mạng Trần Đức Thảo- đáng nhẽ phải trao và tín nhiệm những trí thức thiên tả như Nguyễn Ngọc Giao-. Người đã giúp đỡ ông nhiều trong thời gian trước đây ở Sài gòn cũng như sau này ở Paris, Nguyễn Ngọc Giao đã tìm nơi ăn chốn ở và tiền tài trợ mỗi tháng 10.000 fr cho Trần Đức Thảo- một mối giao tình vừa là tình bạn vừa theo nghĩa đồng chí. Hoặc chị X, cũng cánh tả thường đến thăm ông thường xuyên tại phố Le Verrier..
Không!! Trần Đức Thảo không tin ai cả, dù là những thành phần cánh tả, dù có liên hệ bạn bè..
Trớ trêu và oái ăm thay! Ông lại tin và trút hết tâm sự cho hai người xa lạ, kể như chưa quen biết. Những người trí thức này, Nguyễn Văn Canh và Tri Vũ Nguyễn Ngọc Khuê chỉ vì có một tấm lòng quý mến ông và đã được ông tin cẩn và trút hết tâm sự mỗi tuần trong suốt 6 tháng trời, chạy đua với thời gian.
Tự quý vị tìm câu trả lời họ là ai? Người cộng sản- người thiên tả- người quốc gia như hàng ngàn hàng vạn người quốc gia hiện đang sống ở Paris…
Trí thức thiên tả ở Paris muốn tìm ở Trần Đức Thảo một con người thông minh sắc sảo của thập niên 1950.[5] Nhưng sau khi nghe ông Thảo thuyết trình về Triết học của Staline ở trường đại học Denis Diderot thì mọi người đều thất vọng. Ông Lê Thành Khôi bỏ về nửa chừng. Nguyễn Ngọc Giao, một người có lòng muốn giúp đỡ ông Thảo nhiều trong việc tìm chỗ ăn, chỗ ở cho ông Thảo than:
‘Ông trình bày xong thì tôi ra về, không ở lại nghe phần hỏi đáp..(…) Nghe ông nói bữa ấy, tôi buồn quá. Dường như tôi không phải là người duy nhất cảm thấy buồn..[6].
Nay nếu có dịp đọc Những lời trăng trối thì Nguyễn Ngọc Giao sẽ buồn hay vui, hay cảm thấy bẽ bàng?
Bẽ bàng hơn cả có thể là viên Đại sứ Trịnh Ngọc Thái ở Pháp đã bị Trần Đức Thảo qua mặt sau cái chết có thể do chính y đạo diễn..tưởng rằng đã tịch thu được mọi tài liệu tại ngôi nhà số 2 Le Verrier ngay sau khi ông Thảo chết vào 2 giờ sáng ngày 24 tháng tư năm 1993..
Và tại Sài gòn, một nhân vật quyền thế nắm sinh mạng Trần Đức Thảo là Sông Trường, y chính là người đã trục xuất Trần Đức Thảo ra khỏi Việt Nam với một vé máy bay aller mà không có retour.
Hãy nghe y nói với Trần Đức Thảo:
‘Chúng tôi đã bố trí, đã chuẩn bị cho anh một lối thoát vừa danh dự vừa lý tưởng. Vì anh chưa nghĩ thấu đáo đấy thôi. Tất cả đã sẵn sàng rồi! Nhất định là anh không thể lưu lại cái đất Sài Gòn này như vậy nữa đâu! Đảng đã quyết định, nhất định là anh sẽ phải ra đi thôi!!![7]
Và một người cuối cùng là tiến sĩ Cù Huy Chử. Ông này tự cho mình là người được ông Trần Đức Thảo tín nhiệm và đã trao hết di sản tinh thần cho ông nắm giữ. Và mới đây, vì chưa có cơ hội đọc cuốn Những lời trăng trối, ông đã tổ chức vinh danh Trần Đức Thảo theo kiểu ‘nhổ ra rồi lại liếm’…Cho đến ngày hôm nay thì ông vẫn giữ im lặng.. Phần tôi thì vì tôn trọng sự trung thực, tôi bắt buộc vạch trần những gian dối của ông thôi. Xin ông hiểu cho và từ nay nhớ chừa cho đến chết: Đừng bao giờ làm như thế nữa.
Nội dung cuốn sách Những lời trăng trối bàng bạc từng chi tiết, từng sự việc, dù là chuyện lớn, chuyện nhỏ, dù là chuyện liên quan đến Trần Đức Thảo hay không chỉ tóm tắt vào hai chủ đề lớn:
Hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh bằng chứng minh, bằng lý luận, bằng những nhận xét sâu sắc để vạch trần bộ mặt thật của Hồ Chí Minh.
Về điểm này, từ xưa đến nay, chưa ai có đủ tư cách cũng như can đảm làm như ông.
Điểm thứ hai, ông chứng minh và cho thấy rằng Marx sai lầm. Staline sai lầm và trong chuỗi lý luận ấy Hồ Chí Minh chỉ là kẻ ăn theo hiển nhiên là sai lầm.
Với hai quan điểm nhìn ấy, dù ông không còn nữa, ông đã một cách nào đó gián tiếp xóa sổ đảng cộng sản Việt Nam!!
[1] Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối, trang 210
[2] Trần Đức Thảo, Những lời trăng trối, trang 346, Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ.
[3] Hoàng Ngọc Hiến, Cách cho của giáo sư Trần Đức Thảo, phần chót của bài viết, ông thú nhận:Năm 1958, trong đợt đấu tranh tư tưởng ở trường Đại Học Tổng Hợp, tôi đã phê phán Trần Đức Thảo hết sức gay gắt trong một bài tham luận. Cũng như mọi triết gia, ông Trần Đức Thảo là người đọ lượng. Ở nhà trí thức lỗi lạc này, tôi còn cảm nhận một điều gì đó lớn hơn sự độ lượng, trích trong báo Văn Nghệ, số 1, Bộ mới, tháng 7-1993, trang 2
[4] Lại Nguyên Ân, Món nợ với giáo sư Trần Đức Thảo, 5-5-2013
[5] Đám trí thức thiên tả này đã chót bám theo Đảng. Nay biết rõ bộ mặt thật thối tha của Đảng. Bỏ thì không nỡ, chống thì chống nửa vời thành ra một đám người lạc loài, một loại trí thức ‘cánh tả Caviar’ con nhà giàu ngồi nói thánh nói tướng, bất kế thực tại đất nước bên nhà ra sao..
[6] Nguyễn Ngọc Giao, Với Trần Đức Thảo, một chút duyên nợ, Diễn Đàn Xuân Tân Mão
[7] Trần Đức Thảo, Ibid, trang 236