Nhiều năm trước, báo Nhân Dân (số ra ngày 9 tháng 12 năm 2000) ái ngại đi tin : “Các dân tộc Ba Na, Cà Dong, Chu Ru, Cà Tu, Hà Nhì, Xê Đăng, Thổ Chỉ có từ hai đến ba học sinh đạt tiêu chuẩn. Đáng chú ý, mỗi dân tộc : Cơ Lao, Xtiêng, Giáy, Cơ-ho, Lào, La Chí chỉ có một học sinh đủ tiêu chuẩn cử tuyển vào học các trường đại học, cao đẳng.”
Mẩu tin ảm đạm (và hiếm hoi) thượng dẫn, ngó bộ, không tạo ra sự tin tưởng và an vui gì mấy cho những người dân đang sống trong một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc. Và chắc vì thế, từ đó đến nay, không thấy những cơ quan truyền thông của nhà nước Việt Nam đề cập đến tin tức liên quan tới người dân bản địa (“được cử tuyển vào học các trường đại học”) như trước nữa.
Tuy thế, độc giả vẫn có thể đoán được cuộc sống, cũng như tình trạng học vấn của học sinh miền núi, qua nhiều nguồn thông tin khác :
– Vnexpress: “Trẻ em vùng cao phong phanh trong giá rét. Có em còn đi chân đất, mặc mỗi một chiếc áo mỏng tang.”
– Đất Việt: “Không có thức ăn, hết măng ớt, các em học sinh vùng cao phải dùng bẫy bắt chuột làm thức ăn chống rét.”
Đời sống có những nhu cầu theo thứ tự ưu tiên sắp sẵn : ăn – mặc, ăn – học… Ăn/mặc đều thiếu thốn như thế thì học/hành ra sao?
Câu trả lời có thể tìm được trong một lớp học ở thôn Phùm Gi, thuộc Tây Nguyên, qua cuốn bút ký Nước Mắt Của Rừng của Amai B’Lan – một cô giáo trẻ, đến từ miền xuôi :
“Phùm Gi cách buôn Nu khoảng sáu cây số thôi nhưng có tới hai kiểu đường. Hai cây số đầu là đường nhựa láng o, khoảng bốn cây số sau thì lởm chởm đá, ổ gà và mịt mù bụi bặm. Buôn nằm cạnh quốc lộ 25, bên cạnh con đường rách nát y như bản thân mình vậy.
Đi ngang qua nhìn vào buôn, sẽ thấy những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng cạnh nhau, rúm ró, buồn bã và nín nhịn. Cả buôn có khoảng 70 nóc nhà. Chín mươi chín phần trăm là người Jrai và một gia đình người Kinh đến bán tạp hóa giữa làng…
Cũng như những buôn khác, Phùm Gi sống bằng nghề nông. Trước kia họ trồng lúa, còn bây giờ chuyển qua trồng mì vì mì có giá hơn. Họ cũng trồng thêm lúa, mè, bắp, hột dưa và nuôi bò dê tăng thu nhập.
Nương rẫy Phùm Gi nằm bên kia sông Pa, dưới dãy núi cao ngất, vì đất bên này bán cho người Kinh hết rồi. Muốn lên rẫy, họ phải vượt sông bằng chiếc ghe nhỏ, hai tay hai mái chèo bơi đi như vịt, trông rất nguy hiểm.
Rẫy xa, bố mẹ đi làm từ sáng đến chiều mới về, mấy đứa nhỏ ở nhà tự tìm cái ăn. Nấu cơm được thì ăn, không thì chạy qua nhà hàng xóm ăn ké. Có bữa tôi thấy tụi nhỏ ăn xoài trừ cơm. Bí quá không kiếm được cái gì bỏ vào miệng thì nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nên đứa nào đứa nấy cũng bụng ỏng đít beo, không lớn lên được mà cứ quắt lại.
Người Jrai thương con vô cùng nhưng lại không biết cách chăm sóc con cái. Họ để quần áo chúng rách rưới, đầu tóc dơ bẩn, mặt mày lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đám trẻ đứng trên những tảng đá cao ngóng bố mẹ từ bờ bên kia chèo về như những con chiên lạc không người chăn dắt…
Tối đến, tôi còn đang ăn dở chén cơm thì các em tới. Tất cả là 25 em cả trai lẫn gái, một con số khá ấn tượng trong buổi gặp đầu tiên. Đứa lớn nhất 19 tuổi và nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tám và có tới một nửa chưa biết chữ là gì.
Các em tới, rất vô tư và tự nhiên ngồi xuống xung quanh tôi, líu lo như một đàn chim. Các em tới vì biết hôm nay có người đến buôn của các em và dạy một cái gì đó, chỉ vậy thôi.
Các em tới với đôi mắt to tròn, đen láy và hàng lông mi cong vút lúc nào cũng mở ra nhìn tôi. Các em tới, đi chân đất, mặc nguyên bộ quần áo còn ẩm ướt lúc chiều tắm bên sông Pa. Các em tới với hai bàn tay trắng, thừa sự háo hức nhưng đầy vẻ ngại ngùng.
Chúng tôi ngồi bên nhau, làm quen và phác họa rất nhanh chương trình học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ sáu. Lúc bảy giờ đến chín giờ tối vì ban ngày các em đều bận đi chăn bò. Sau giờ học sẽ sinh hoạt vòng tròn, tập hát, kể chuyện hay chiếu phim tùy nhu cầu.
Tôi biết trong buôn các em yếu nhất hai môn toán và tiếng Việt nên chỉ tập trung dạy hai môn đó. Ban ngày tôi rảnh, ai cần học cứ tới, tôi dạy hết. Bọn trẻ khoái chí, vỗ tay rần rần và hẹn tối mai rủ thêm bạn tới.
Khi bọn trẻ về hết và chỉ còn lại một mình trong ngôi nhà trống trải, thì tôi tự hỏi chính mình: ‘Thế là lớp học của tôi bắt đầu thật rồi sao?’ Bắt đầu mà chẳng có gì cả. Không bàn không ghế. Không phấn không bảng.
Không sách vở bút viết. Đến cả ánh sáng cũng nhờ nhợ như một vì sao xa. Chúa ơi, Chúa đã dẫn con tới đây thì xin Chúa cũng hãy chỉ bảo cho con biết con phải làm gì nhé. Và Chúa đã nhận lời.
Ngài chỉ cho tôi biết việc đầu tiên là tôi hãy quá giang xe về Ia R’siơm vào sáng hôm sau để mua sách vở, bút viết cho bọn trẻ, sau đó về nhà ama tìm một tấm ván làm bảng. Tôi không quên mang theo ít thuốc Panadol phòng ốm đau. Anh Wiêng xung phong làm xe ôm chở tôi về lại Phùm Gi với bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh trên người…
Qua tới nơi mới biết còn thiếu một thứ rất quan trọng, đó là bàn học. Thế là cô trò hì hục vác những tấm ván ở chuồng bò nhà ami H’hot ra sông Pa cọ rửa, lau khô. Tôi mượn ba cái ghế nhựa nhà ami H’hot làm trụ mà vẫn không đủ, liền mượn luôn cả cái cối giã gạo của nhà bên cạnh. Vậy là có những cái bàn ngon lành. Tưởng thế là ổn, ai dè học trò đông quá, lên tới 35 em, không có đủ bàn, thành thử, khoảng một phần ba lớp học phải nằm, quỳ hoặc bò ra mà viết. Học trò của tôi viết trên những cái bàn thô kệch ấy. Những dòng chữ ngoằn ngoèo, đôi khi dơ bẩn, tẩy xóa tùm lum, duy chỉ có đôi mắt là sáng như sao và sự chăm chỉ đến tê người. Nhìn học trò lăn lóc viết, tôi như chết lặng.
Ôi! Có nơi đâu đi kiếm con chữ mà khổ sở đến vậy không hả trời?
Tôi phát cho mỗi em một cây viết và một cuốn vở, bắt các em viết tên của mình vào vở, khi học xong tôi thu bút vở lại, kẻo bọn trẻ mang về xé vở làm diều hết. Bữa sau tới học, tôi lại phát ra. Thế là bảo toàn được lực lượng. Cứ nhìn gương mặt háo hức nhận vở của bọn nhóc mà thấy vui lây.
Có nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy bạn lớn viết hộ tên. Người Jrai có nhiều cái tên đọc muốn méo miệng mà vẫn không trúng, tiếng Việt cũng không biết phải viết thế nào. Những em chưa biết viết không theo kịp anh chị lớp lớn, tôi cho ngồi riêng ra một góc rồi cầm tay tập viết cho từng đứa. Có cầm tay bọn nhóc, có đặt mũi vào mái tóc cháy nắng và bộ quần áo khét lẹt, lấm lem bùn đất và sực nức mùi phân bò của bọn nhóc, mới thấy xót xa cho các em. Còn bọn trẻ thì cứ nắm chặt bút, mím chặt môi viết như sợ từng chữ bay đi mất.
Học xong, tôi cho sinh hoạt vòng tròn. Từ trước đến giờ, chưa có ai đến với các em, dạy dỗ các em và cho các em chơi các trò chơi mà đáng lí tuổi của các em phải được chơi… Qua một ngày vất vả ngược xuôi, sau dãi dầu mưa nắng, thì giờ đây, các em được tha hồ sống thật với bản tính hồn nhiên vô tư của tuổi thơ. Các em không còn vẻ lam lũ của những đứa trẻ chăn bò nữa, mà thay vào đó là những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ và ánh mắt lung linh.
Tôi thích đứng một mình nhìn các em ra về sau khi giải tán, vì lúc đó, men chơi còn chất ngất, khiến đứa này chọc ghẹo đứa kia, để rồi cả đám đuổi bắt nhau, tiếng cười giòn tan như bắp nổ rộn rã trên đường làng. Bóng bọn trẻ khuất lấp trong màn đêm rồi đậu xuống dưới một mái nhà, mang theo vào giấc ngủ nụ cười trên môi. Hôm nay trăng sáng, tha hồ chơi, gần mười giờ rưỡi các em mới chịu về.
Mấy chục cái miệng thi nhau chúc tôi ‘pit hiam’ (ngủ ngon) rồi ùa chạy đi trên con đường làng đầy ánh trăng, tiếng cười trong veo như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo núi rừng vào thinh không. Tối nào cũng có vài chục người chúc ngủ ngon. Không muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi những thiên thần Jrai. (Amai B’lan. Nước Mắt Của Rừng. San Jose: Nhân Ảnh, 2013).
Trong giấc ngủ, tất nhiên, những thiên thần Jrai có thể mơ đến một ngày được bước chân vào ngưỡng cửa đại học – một thứ đại học có tầm vóc quốc tế, theo như lời của người đại diện của hội đồng sáng lập Dự Án Đại Học Tư Thục Trí Việt (Tri Viet International University Project) bà Tôn Nữ Thị Ninh :
“Gọi là trường quốc tế bởi vì sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh niên Việt Nam thời hội nhập phải có tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm việc của mình, ngoài tiếng mẹ đẻ…”
Tất nhiên, đây là một giấc mơ xa. Cũng xa vời (và mịt mờ) như cái chủ nghĩa xã hội mà Đảng và Bác (kính yêu) đã chọn. Tạm thời, ngày mai, khi vào lớp em hãy cứ nhẩn nha học phép toán xem 15 trừ 8 còn bao nhiêu (trước đã) để đỡ bị cái nạn hay bị người Kinh thối lộn tiền – khi đi mua muối!
2013
Thui thì thắp 1 ngọn nến hy vọng cho Tưởng Năng Tiến
Nhà nghiên cứu -RF Phúc Kđinh A bảo vậy- Phúc Kđinh Đinh Kim Phúc đã đấu tranh thành công tăng lương hưu cho những người có công với Đảng cũng là đất nước, aka những nhân sĩ-trí thức mà Tưởng Năng Tiến vưỡn mến mộ & kính trọng
Bòn nơi khố rách để đãi nơi lý lịch hồng
Nhưng toàn nhân sĩ-trí thức thui hè
Nhà báo Nguyễn Thông, hễ nhắc tới Bác Hồ là cao hứng làm 1 lèo
Ông Ứng bị thương vào mắt, không nhìn thấy gì, nhưng ông đã lấy ngón tay chấm vào máu, sờ soạng vẽ theo trí nhớ trên mảnh vải, được bức chân dung cụ Hồ. Kinh thật. Coi bức tranh có một không hai ấy, thấy cũng giông giống. Có nhẽ thời thập niên 60 hình ảnh ông cụ được treo khắp nơi, từ trong nhà dân ra hội trường ủy ban, cứ ngó mãi, ảnh lặn vào trong óc. Vả lại, vẽ cụ cũng dễ, cứ vầng trán cao, chòm râu thì thể nào chả giống ít nhiều.
Nhắc tới tranh bác Hồ, lại sực nhớ hồi lớp 3 lớp 4 gì đó (nửa đầu thập niên 60) đám chúng tôi học thuộc vanh vách bài thơ loại “học thuộc lòng”, tên nó là gì thì quên, nhưng ruột nó thì nhớ từng chữ. Thế này: “Trên buôn đồng bào Thượng/ Một sớm lũ Diệm vào/ Ảnh cụ Hồ để đâu/ Đưa nạp ra đây hết/ Đồng bào vào trong bếp/ Bưng hũ muối đem ra/ Để ngay ngắn giữa nhà/ Đấy, cụ Hồ tôi đấy/ Ở miền xuôi cũng vậy/ Khi bọn chúng lăm le/ Bà con ta một bề/ Bưng nồi cơm ra chỉ/ Và nơi nào cũng thế/ Bờ biển đến chân đèo/ Ảnh cụ tuy không treo/ Hình cụ đâu cũng có/ Bọn kia dù càn rỡ/ Muốn thu ảnh thu cờ/ Cờ và ảnh cụ Hồ/ Thu sao cho hết được”.
Đọc xong, đứa nào cũng lè lưỡi. Chả hiểu lè bởi cái gì. Hồi đó bọn trẻ được nhồi nhét khiếp thật.
…
Tôi sống ở miền Bắc, khi cụ còn tại thế 14 năm, chả lần nào gặp cụ Hồ. Cả làng cả xã tôi, thậm chí cả huyện, cũng chả ai được nhìn thấy cụ Hồ bằng xương bằng thịt bao giờ. Ông anh tôi bảo cụ ấy là ông trời, ngày nào cũng nhìn thấy trời, nhưng gặp thì không bao giờ nhá, đứng có mơ.
Những năm ấy, bạn Trung Quốc in giúp rất nhiều chân dung cụ Hồ trên vải lụa xám, nhà nước phát không cho dân chúng treo, nhà tôi cũng được một cái. Ngoài ủy ban còn có tranh lụa cụ in màu, đẹp lắm. Chỉ công sở hoặc nhà cán bộ to mới có tranh cụ màu”
Nhà báo -heck, Tưởng Năng Tiến còn kêu được Lưu Trọng Văn là nhà báo- Nguyễn Thông kể về giáo dục thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
“Trên buôn đồng bào Thượng/ Một sớm lũ Diệm vào/ Ảnh cụ Hồ để đâu/ Đưa nạp ra đây hết/ Đồng bào vào trong bếp/ Bưng hũ muối đem ra/ Để ngay ngắn giữa nhà/ Đấy, cụ Hồ tôi đấy/ Ở miền xuôi cũng vậy/ Khi bọn chúng lăm le/ Bà con ta một bề/ Bưng nồi cơm ra chỉ/ Và nơi nào cũng thế/ Bờ biển đến chân đèo/ Ảnh cụ tuy không treo/ Hình cụ đâu cũng có/ Bọn kia dù càn rỡ/ Muốn thu ảnh thu cờ/ Cờ và ảnh cụ Hồ/ Thu sao cho hết được”
Tôi nhớ rất rỏ, chỉ vài tháng sau khi chiếm đươc Miền nam,nhà nước CS đả ra môt thông cáo cho Công đồng Thế giới,như sau :” Tính từ giờ (theo giờ quốc tế) ngày… năm 1975,nước CHXHCNVN đả xóa -nan -mù chữ trên khắp cả nước !!!” Thiệt là quá đáng ! nói theo kiểu 2 lúa là “phếch lối” !Đến hôm nay ,sau nử thế kỷ cai tri ,CSVN đả biến Dân tôc VN là một Dân Tôc vừa Mù chữ vừa Ngu nhất trên Thế giới nầy .!Câu nói nầy dưa vào lời nhân xét của nhà văn Dương thu Hương ,hiên ở Pháp,khi trả lời báo chí:” Dân trí VN ngang hàng với những bô tôc lac hâu ở Phi châu”.Thât vây,ai đả từng về Miền Tây Bắc VN,rất dễ bắt găp những thanh niên Vùng cao,mặt mầy trông sáng sủa,nhưng môt chữ bẻ đôi không biết . Rất nhiều trường học chỉ có cái “bảng hiêu” mà nhìn vào trong trống trơn!Môt đất nươc ,mà người Dân cái -gì -củng -cười đươc cả,thì không phải là :một dân tôc vô cảm
(ngu) hay sao. Bởi thế,nhà thơ Chế lan Viên mới có câu: “Giữa buốn tủi-chua cay,vẩn có thể cười”. Cười trừ!!