Nụ cười rạng rỡ của các cô gái anh hùng trên nhật báo và phim ảnh tuyên truyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh đã chu du khắp thế giới, nhưng số phận bi thảm của chính những người nữ anh hùng vô danh này vẫn chưa được mọi người biết đến đầy đủ.
Thỉnh thoảng, giới truyền thông trong nước lại hốt hoảng loan tin:
Hoặc:
Tuy được báo động đều đều như thế nhưng tình trạng “lạm phát cấp phó” vẫn cứ diễn ra ở nhiều sở, phòng, ngành, tại không ít địa phương” – theo như lời than phiền của phóng viên báo Lao Động.
Tình trạng này được ông Dương Văn Thống, Phó Bí Thư tỉnh Yên Bái, lý giải như sau: “Anh em phân công nhau không được, hạ xuống không được. Người Việt Nam chúng ta là thế.” Thảo nào mà nước CHXHCNVN đã có đến 17 ông Phó Thủ Tướng và năm/sáu bà (hay ông) Phó Chủ Tịch Nước cùng tại vị.
Vấn đề – chả qua – là vì “ghế ít đít nhiều” nên lắm đồng chí lãnh đạo đành phải ngồi ghế phó, hay còn gọi là ghế súp, thế thôi. Tuy thế, chả nghe vị nào lên tiếng phiền hà gì ráo và tất cả (ngó bộ) đều muốn ngồi luôn – dù chỉ là ghế súp.
“Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: ‘Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết’. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào :‘Mầy có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy ?’ Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu:‘Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghệ. Westminster, CA: 1997).
Tuy “nghe ngứa con ráy lắm,” và đôi lúc cũng cảm thấy (đôi chút) ngượng ngập vì chức vụ hữu danh vô thực nhưng bác Tôn vẫn cứ ngồi im re ở cái ghế Phó Chủ Tịch Nước từ 1960 cho đến mãi 1969 lận.
Bác Bằng cũng thế:
“Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét …
Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp.” (Vũ T. H. s.đ.d. tr. 361).
Ấy vậy chớ người Anh Cả Cách Mạng cũng vẫn yên vị với cái chức danh Phó Chủ Tịch Nước đúng mười năm chẵn, dù biết rằng cái ghế này có rệp.
Thế mới biết lợi danh – hay người xưa còn gọi là cái bả vinh hoa – luôn là miếng mồi hấp dẫn đối với chúng sinh, bất kể thời nào, và bất phân giới tính. Bà Bình cũng ngồi êm ru ở cái ghế PCT, dù chỉ ngồi chơi/xơi nước (đâu) cũng chục năm.
Theo Wikipedia Hà Nội: “Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định…
Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước.
Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”
Mọi huân chương đều có mặt trái của nó. Cái mặt trái Huân Chương Hồ Chí Minh của bà Nguyễn Thị Bình là tính ạng và cuộc đời bầm dập, te tua, của vô số những người phụ nữ Việt Nam:
“Họ là những cô gái thời chiến, những thiếu nữ tình nguyện đầu quân vào một trong những đội nữ binh lớn nhất mà bất cứ nước nào từng đưa ra một chiến trường tân tiến … Khi hòa bình trở lại, họ mong sẽ tìm được một tấm chồng xứng đáng và sinh con đẻ cái.
Ðối với nhiều người trong số họ, giấc mơ đó đã không thành. Trở về sau khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975, họ đã bị coi như thiếu hấp dẫn, vì bị tàn phá bởi bệnh hoạn, thiếu ăn và những cực khổ khác mà họ đã phải chịu đựng trong rừng…
Họ nói về chuyện trở về nhà với đời sống khó khăn hơn là đời sống mà họ đã rời bỏ. Sự cay đắng dai dẳng vì trong suốt bao nhiêu năm họ đã là những chiến sĩ bị bỏ quên trong một cuộc chiến tranh mà những người đàn ông chiến đấu – chứ không phải phụ nữ – đã trở thành anh hùng.
Tôi đã tưởng cuộc đời tôi sau chiến tranh sẽ giản dị và hạnh phúc,’ theo lời Nguyễn Thị Bình, cân được 85 pounds khi trở về nhà. ‘Nhưng tôi đã để cho người bạn trai của tôi ra đi. Tôi đã nói với anh ấy rằng với những chứng bệnh của tôi, với một chân bị thương của tôi, tôi sẽ là một gánh nặng cho anh ấy.’
Bà Bình đã sống một mình suốt 17 năm, một hình thức lưu vong trong một xã hội nặng về gia đình trong đó những phụ nữ hiếm muộn và những cặp vợ chồng không con là những đối tượng để thương hại. Thế rồi, trước sự thúc giục của những cựu đồng chí trong một đoàn phụ nữ – đoàn 559 – bà Bình đã ‘lấy một người chồng qua đêm’ và sinh được một đứa con gái.” (David Lamb. “Vietnam’s Women of War.” Los Angeles Times 10 Jan. 2003. Bản dịch Nguyễn Nhật. Talawas 17/07/2003).
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC (vào hôm 13 tháng 10 năm 2008) về số phận Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam sau 1975, nguyên Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Bình nói “tổ chức này khi ấy đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử” và “khẳng định” rằng “tôi không có sai lầm gì hết. Con đường mình đi hoàn toàn đúng.”
Nếu sau chiến tranh mà bà Bình này cũng trở thành một phụ nữ 4 không: không nhà, không cấp dưỡng, không con, không chồng (hoặc chỉ là một người chồng qua đêm, y như bà Bình kia) thì khán thính giả của BBC – không chừng – đã được nghe đôi lời nói (khác) chân thành và tử tế hơn!
Trước giờ, VC thường gọi học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh” của TT Nixon là chính sách “đổi màu da trên xác chết”. Thật ra, chính CS quốc tế đã áp dụng chính sách này ở VN ngay từ đầu cuộc chiến, tức là lúc mà chữ ký các bên ở HĐ Geneva còn chưa ráo mực năm 1954! Nga Tàu đã dùng CSBV trong cuộc chiến ủy nhiệm đánh Mỹ, nghĩa là chúng chỉ ngồi một chỗ để tiếp tế quân vận cho CSBV đổ máu thí mạng cùi giùm chúng cho đến khi thắng Mỹ mà chúng không phải tốn một giọt máu.
Tuy nhiên, máu của nhân dân miền Bắc đã đổ ra quá nhiều mà vẫn không làm nên cơm cháo gì, cho nên CSBV đã phải dùng chính sách đổi màu da trên xác chết một lần nữa, ngay với chính đồng bào của mình. Vì thế, chúng đẻ ra MTGPMN, dùng máu của người miền Nam để cướp trọn miền Nam mới thật là diệu kế!
MTGPMN ra đời càng rầm rộ bao nhiêu thì khi dẹp tiệm vao nam 1975 lại càng không kèn không trống bấy nhiêu!
Tuy nhiên, những thành phần “tiên tiến” trong MT vẫn được đảng chiếu cố cho giữ vài chức vụ lẻ tẻ ngồi chơi xơi nước để đảng khỏi mang tiếng phụ bạc những người “có công với cách mạng”. Thị Bình đã được đảng chiếu cố kiểu này và nhờ thị bỏ cái tật khua môi múa mỏ ồn ào, lại khéo ngôi chơi xơi nước đúng với ý đảng,nên mới sống còn đến giờ phút này!
Nguyen thi Binh là một thành viên sáng lập Đại học tư (?) Duy Tân ở Đanẳng. Thị Bình có 2 biệt thư ở Sơn Trà do Nguyễn bá Thanh tặng !Nói thẳng ra, Thị Bình sống “đủng đỉnh” tiền bạc. Thế nhưng vừa rồi tôi thấy trong lễ tang Đổ Mười ,Bà Bình được 2 người dìu vào ký vào sổ tang,tôi
hởi ôi! Từ diện mạo đến sức khỏe xuống cấp một cách tồi tệ ! Già thì ai củng phải già.Nhưng già mà có gương mặt không”thanh thoát”,thì rỏ ràng tiềm ẩn “cái ác”!. Nghèo, thì ai củng có thể nghèo. Nhưng nghèo của “bần cùng” khác với nghèo của “thanh bần”!. Hảy nhìn vào cái “già” và cái “nghèo” thì biết thế nào là CS !!
Tui thiệt phát chán với giọng văn đầy chất “phản động” của đối tượng Tưởng Năng Tiến này quá à!
Bác Tôn tính tình hiền hòa, có bằng tiến sĩ chăn vịt hay chân vịt gì đó của hãng tàu thủy Ba Son,loại 2 cửa sổ và không người lái. Đảng thấy bác là nhân tài nên phong cho bác làm phó chủ tịch để ngày ngày dạy cho các cháu về thủy động học. Sáng nào bác Tôn cũng chơi cái quần xà lỏn, ngồi xổm, bày lòng thòng ngay trên sân xi măng cả chùm dây điện nội địa và…ổ bi ô ri din để các cháu ngoài bắc làm quen, rồi sau đó mới giới thiệu cái ống khói của tàu mà bác đã từng treo “cờ đỏ” của mấy ladies of the evening tại biển đen, Sê Vác tơ pôn gì đó…má!. Nhờ vậy mà sau này kỹ sư miền bắc cái…con kẹt gì cũng biết. Chỉ bao nhiêu đó thì bác đã đáng làm biểu dương rồi. Làm gì có chuyện lính kín theo dõi nhà bác học nổi tiếng…lú lòi cả lưỡi.
Riêng những cô gái thời chiến, những thiếu nữ tình nguyện đầu quân để đánh Mỹ cút trước đây thì cũng đâu có bị bạc đãi chi. Trên đường Trường Sơn thì cũng lăn lóc trong bụi, trong hang với các chiến binh của đoàn 559 gọi là “chung vui đêm này cho trọn tình quê hương”. Trong lúc hưng phấn thì 2,3 cô cứ quấn một chàng bộ đội cụ hồ quần cho tới sáng, dẫn chàng tới tình trạng…”nửa người thê lương, chân không chịu theo mình lên giường”. Không tin thì cứ hỏi Tây độc Tony đã ôm quần, bỏ của chạy lấy người bao lần giữa lằn tên mũi đạn rồi. Làm gì có chuyện họ trở nên thiếu hấp dẫn và sống đơn độc sau chiến tranh? Có thấy cô Nhíp ở bên Mỹ không? thiếu gì mấy người lính lái xe tăng năm nào vẫn thường xuyên vác cây không giựt tới “hỏi thăm sức khỏe”, kể chuyện…hành quân đêm. Nói chung là tổ chức đó đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử, như là bà Nguyễn Thị Bình đã báo cáo với Mao chủ tịch trong hình, giống như cái ống nhổ nằm ngay chân của ổng vậy!
Nè! già Tưởng đừng có cố tình xuyên tạc nữa đó nghen! Biết đi chơi chút híu đi cha nội!
Dương quỳnh Hoa – cựu sáng lập viên của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ( cánh tay nối dài của quân Cộng sản Bắc Việt xâm lược): Bọn lãnh đạo Cộng sản là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản.
Dương quỳnh Hoa theo học ngành thuốc ở Sài Gòn, rồi sang du học ở Pháp, đỗ bằng Bác sĩ . Gia nhập đảng Cộng sản Pháp vào những năm 1948-1954. Tháng 12/1960, DqH trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi DqH chạy vô “bưng” sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức này mới được loan tải qua đài phát thanh của MTDTGPMN.
Sau tháng 4/1975, DqH được cho làm Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam.
Tháng 7 năm 1975, Cộng sản Hà nội dẹp bỏ MTGPMN.
Cuối thập niên, DqH nói với Nguyễn Hữu Thọ – cựu chủ tịch MTGPMN: ” Tôi và anh chỉ là những kẻ bù nhìn, là những món đồ trang sức rẻ tiền. Chúng ta không thể nào phục vụ một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ “.
Ngày 17/10/96, tờ báo Far Eastern Economic Review hỏi DqH : “Biến cố nào được kể là nổi bật nhất trong 50 năm qua?”. DqH trả lời: “Sự sụp đổ bức tường Bá Linh và chấm dứt một “ảo tưởng.”
Khi được đạo diễn Stanley Karnow của cuốn phim tài liệu Vietnam: A History phỏng vấn , DqH phát biểu rằng:Tôi đã là người cộng sản cả đời tôi. Nhưng bây giờ khi chứng kiến những sự thật về chủ nghĩa cộng sản và sự thất bại của nó, quản trị kém, tham nhũng, đặc quyền, áp chế, lý tưởng của tôi đã không còn.
Giữa thập niên 1990, nhân chuyến đến thăm Việt nam của tổng thống Pháp Mitterrand, khi được đài truyền hình Pháp hỏi ý kiến về giới lãnh đạo Cộng sản Việt nam, DqH phê bình rằng : Đó là những kẻ ngu si đần độn, bởi vì họ là cộng sản.
DqH rút chân ra khỏi đảng Cộng sản. Qua đời ngày 25-2-2006 ở Sài Gòn.