Đây là chiến thắng làm nên tên tuổi tướng Giáp. Tôi sẽ chỉ tóm tắt những chi tiết giúp bạn đọc hiểu được trận đánh mà không đi vào chi tiết từng giai đoạn, từng trận đánh.
Và tất cả phải dựa trên những con số. Rất tiếc là về phía người Pháp, những nhật ký tại mặt trận Điện Biên Phủ từ các cứ điểm như Huguette, Isabelle, Vulture vv. thì đã được lệnh tiêu hủy hêt trước khi các cứ điểm này rơi vào tay binh lính cộng sản.
Thay vì trình bày những tài liệu chính thức của tướng Giáp và các người liên thuộc, chúng tôi tìm hiểu quan điểm cũng như thái độ của người Pháp trước
Nói về những nguyên do người Pháp thua trận thì nhiều và xin tóm lược một số điểm :
– Trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử, nhà xuất bản Quân đội nhân dân, ấn bản năm 2000, tướng Giáp nói rất ít về viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam, nếu có phải nhắc tới thì nói thoáng qua, sơ sài và mơ hồ ..Đây là chiến thắng làm nên tên tuổi tướng Giáp . Tôi sẽ chỉ tóm tắt những chi tiết giúp bạn đọc hiểu được trận đánh mà không đi vào chi tiết từng giai đoạn, từng trận đánh.
Thái độ đó hiểu được, chẳng phải mình tướng Giáp mà cả những người biên tập như Hữu Mai và nhất là Hoàng Xuân Tùy, nguyên trưởng ban tuyên huấn mặt trận Điện Biên Phủ cho rằng chiến thắng Điện Biên là đỉnh cao của trí tuệ Việt Nam ..
Chẳng hạn Trận Địa Công là một sáng tạo chiến thuật của bộ đội ta, hạn chế chỗ mạnh của địch là phi cơ, pháo binh và phát huy sức mạnh áp đảo quân địch của bộ binh ta .
Sáng tạo về hậu cần như dùng thuyền độc mộc chở gạo qua các dòng suối, dùng ngựa thồ và đặc biệt dùng xe đạp thồ có thể trở được từ 200 đến 300 kg gạo.
Về điểm này, chúng ta có thể dồng ý với ông Hoàng Xuân Tùy là bộ đội đã có sáng kiến và đem lại thành công trong việc tiếp tế gạo cho mặt trận. Nhưng vấn đề không hẳn là chở được gạo mà gạo ở đâu mà chở ? Trong bài Mường La chạy gạo, tác giả cho hay gạo ở dưới xuôi lên chở 20 kg chỉ còn một ký. Dân vùng Tây Bắc phải ăn độn.
Cán bộ đành bắt dân cho vay !! Chẳng hiểu gạo vay này đã trả cho dân chưa?
Điện Biên Phủ qua những Hồi ức, tập II, trang 194
Trong một bài khác, thiếu tướng Nguyễn Văn Nam ghi lại :
“Chúng ta có 1500 tấn gạo ở Ba Nậm Cúm, giáp biên giới Trung Quốc” . Có nghĩa là gạo được chở từ Trung Quốc sang ?
Điện Biên Phủ qua những hồi ức, ibid, trang 135
Tuy nhiên từ chỗ đó- do lòng tự ái dân tộc- cho rằng chiến thắng Điện Biên là do tài tình sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam và tài cầm quân của các tướng lãnh quân đội Nhân dân ở mặt trận ..là không đúng
Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất đã xong. Hà Nội đã kỷ niệm 50 năm chiế’n thắng Điện Biên Phủ trong đó dành công thắng lợi cho vai trò ưu việt của đảng Cộng Sản trong vai trò lãnh đạo cuộc chiến thắng. Đồng thời cố tình làm nhẹ đi vai trò “cố vấn” của Trung Quốc.
Các nhà viết sử trong nước” tiến bộ” nhất tương đối trung thực hơn nhìn nhận vai trò của Trung Quốc đối với chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhưng vẫn thòng thêm một cái đuôi như trong nhận xét của Dương Trung Quốc trên Việt Nam net: “ Vai trò của Trung Quốc đối với chiến dịch Điện Biên Phủ là điều người Việt Nam hết sức ghi nhận, nhưng với sự trung thực lịch sử, đóng góp tới đâu thì chúng tôi nghĩ rằng đấy là vấn đề mà các nhà lịch sử cần làm sáng tỏ?.. nhưng, đóng góp của các vị ấy đến mức độ nào, chỉ có lịch sử mới trả lời được”.
Đây chỉ là một cách trả lời cho xuôi tai và tìm cách tránh né vấn đề. Và vì thế, việc nhìn lại ĐBP sau khi tài liệu Văn Khố Bắc Kinh được mở là điều cần thiết.
Đó là điều mà người viết muốn nhìn lại trong bài viết này.
Phản ứng chính thức và tiêu cực nhất của Hà Nội là lời tuyên bố của Hoàng Xuân Tùy, nguyên Trưởng Ban Tuyên Huấn mặt trận Điện Biên Phủ đăng trên báo Nhân Dân 08-01-04 trong bài “ Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cách đây 40 năm: Đỉnh cao trí tuệ Việt Nam” đã viết rằng: “ Rất tiếc là trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20, có một số bài viết xuyên tạc lịch sử, cho rằng Việt Nam thắng Pháp chủ yếu dựa vào cố vấn nước ngoài và viện trợ nước ngoài, cố làm giảm nhẹ tầm vóc chiến thắng của quân và dân Việt Nam”{Trích lại trong bài viết của Đại Dương: Vai trò của Trung Quốc trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất, trên www. Người dân.net}
Điều mà ông Hoàng Xuân Tùy ám chỉ viết xuyên tạc, phải chăng là cuốn sách của ông Qiang Zhai, giáo sư sử học thuộc Đại Học Aubum University tại Mongomery? Cuốn China and the Viet Nam wars 1950-1975 {Ông Zhai đỗ BA, 1981 và MA,1984, tại đại học Nam Kinh và đỗ Ph.D 1991, tại đại hoc Ohio}.
Trong đó dựa theo tài liệu của Trung Quốc cho thấy vai trò cố vấn cũng như viện trợ Trung Quốc là yếu tố chính trong các chiến dịch Tây Bắc, Biên giới và sau cùng chiến dịch Điện Biên.
Cho đến nay thì ngoài các cuốn sách coi như tài liệu chính thức của tướng Võ Nguyên Giáp như: Điện Biên Phủ, Điểm hẹn lịch sử, Điện Biên Phủ- Chiến dịch lịch sử, Đường tới Điện Biên Phủ. Các tài liệu khác chỉ là thứ yểu.
Bao giờ đến lượt Hà Nội chính thức mở văn khố như bên Trung Quổc?
Căn cứ vào những tài liệu có được về phía VN của tướng Giáp, chúng tôi sẽ đối chiêu và so sánh với tài liệu phía Trung Quốc: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Viện trợ Việt Nam chống Pháp. {Hồi ký của những người trong cuộc}do Nhà xuất Bản lịch sử ĐCS Trung Quốc Bắc Kinh, 2002. Người dịch là Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Hy.
Dĩ nhiên, dụng ý của Bắc Kinh không che dấu đến không cần che dấu khi cho phổ biến gần như cùng một lúc với cuốn sách của Qiang Zhai ở trên. Những tài liệu này đã được giữ Kín từ hơn 50 năm nay cho bung ra thì không thể không lưu ý.
Tuy nhiên, đọc những tài liệu phía Trung Quốc cho thấy gần như một sự thực hiển nhiên khó chối cãi có bàn tay của Trung Quốc đã dơ ra viện trợ vô điều kiện cho VN.
Sự che dấu kín đáo trong các sách của tướng Giáp cho thấy thiếu trung thực.
Tự ái quốc gia, dân tộc đã lấn lướt sự thực lịch sử.
Những sai lầm về chiến thuật cũng như các thất bại gây nhiều tổn thất trong các trận đánh đã bị khỏa lấp khéo léo. Mặc dầu ai cũng biết rằng đánh nhau thì có thua có đươc. Thua nhiều hay thua ít. Ở đây gây cho người đọc có cảm tưởng là một vị tướng tài giỏi có một không hai trong lịch sử chiến tranh VN và ngay cả thế giới. Các trận đánh đã được mô tả và trình bày thế nào làm cho hầu hết các tác giả Tây Phương đánh giá sai lạc về tướng Giáp.
Mặc dầu người thắng trận luôn luôn là kẻ có lý.
Việc thứ nhất: Ông Hồ đích thân sang Bắc Kinh tháng 1/1950 yêu cầu Trung Ương đảng Cộng sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp
Có nhiều bài viết của các tác giả Trung Quốc viết về vấn đề này. Chính phủ Việt Minh từ 1946 đến giờ chiến đấu đơn độc, chưa được ngay cả các nước anh em lớn như Liên Xô, Trung Quốc nhìn nhận. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp gọi thời gian này là “5 năm chiến đấu trong vòng vây”, từ 23 tháng 9 1945 đến mùa hè năm 1950.
Sự xác nhận trên cho thấy rõ ràng có sư thay đổi sau chuyến đi Bắc Kinh của ông Hồ Chí Minh. Vì truớc đó, tướng Giáp đã cho thấy rõ thực trạng quân đội Việt Minh như thế nào? Lực lượng bộ đội đã lên đến con số 166.542 người cộng với 2 triệu dân quân du kích so với lực lượng của binh đội Pháp là 180.000 người sê xích thua kém không bao nhiêu.Tuy nhiên, như tướng Giáp viết:
“Tuy nhiên quân đội ta vẫn đơn thuần là bộ binh, trang bị còn rất yếu kém, phương tiện di chuyển vẫn là đôi chân, mọi thứ vũ khí, kể cả sơn pháo, đều nằm trên vai chiến sĩ. “ Về mặt lương thực thì như tướng Giáp giải thích: “Điều gây căng thẳng lúc này lại là khó khăn gay gắt về mặt lương thực. Ông giải thích thêm: Những tỉnh miền núi ít đất trồng trọt, dân cư thưa thớt. Bộ đội tập trung về Việt Bắc mỗi ngày mỗi đông. Cư dân miền núi vốn không đông lại phải tham gia mọi công tác chính quyền, đi bộ đội, đi dân công, làm đường, phục vụ chiến dịch. Số người không sản xuất nông nghiệp quá nhiều. Lương thực gạo muối đều trông vào miền xuôi.
Địch biết rõ điều này.
Chúng đẩy mạnh bao vây chặt chẽ ta về kinh tế, lương thực, đặc biệt là gạo và muối. Chúng thực hhiện chính sách đốt sạch trong những cuộc càn, dùng máy bay đánh phá các đập nước. Giá gạo tăng vọt, từ 4.3/ một Kí lô lên đến 14.2/một kí lô. Đến mùa hè này thì có tiền cũng không mua được gạo. Các cán bộ từ tỉnh lên phải tự túc mang theo gạo hoặc mang thuốc men, vải vóc đổi lấy gạo..Đồng tiền VN mất giá rất nhanh”
Và tướng Giáp kết luận: Nhìn bữa ăn của bộ đội, cán bộ, thật đau lòng.
Trích Đương tới Điện Biên Phủ, Võ Nguyên Giáp, trang 7-8
Vì thế phải trông chờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc thôi. Không có Trung Quốc là bộ đội đói ăn.
- Trong bài Mẫu Mực sáng ngời của chủ nghĩa Quốc Tế Vô sản của Lã Quý Ba
Lã Quỳ Ba là người được cử sang VN đầu tiên sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Mao Trạch Đông vào mùa đông năm 1949, xin cung cấp viện trợ. Lã Quý Ba viết: Tháng 1/1950, tôi từ Bắc Kinh lên đường, bí mật xa tổ quốc. Trước khi lên đường, đồng chí Thiếu Kỳ giao cho ba tháng làm xong việc về nước.Thế nhưng, tình hình thay đổi, tôi đã đi một mạch gần 8 năm..
Trích bài Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa Quốc tế vô sản, Lã Quý Ba, trang 2
Cạnh đó là hai tập sách do các vị sĩ quan chỉ huy mặt trận Điện Biên Phủ qua những trang hồi ức, tập 1 và 2 là bản đồng ca nhiều giọng. Các tác giả như Thiếu tướng Phạm Kiệt, thiếu tướng Nguyễn Thanh Bình, thượng tá Mạc Ninh, thượng tá Vũ Văn Đôn, thượng tá Doãn Tuế, thiếu tướng Lê Chuỏng, thiếu tướng Nguyễn Đôn Tụ, trung tướng Hồ Cư, đại tá Nguyễn Đăng Chương, thiếu tướng, GS, TS Lê Thế Tung, đại tá Vũ Xuân Chiêm, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, thiếu tướng Phạm Ngọc Mậu, thiếu tướng Nguyễn Văn Nam, thiếu tướng Nguyễn Văn Bích và vô số các tác giả nhà báo, dân sự viết chỉ có tác dụng tuyên truyền nhiều hơn giá trị lịch sử.
Tôi lật dở cuốn sách với hai bài viết của hai tác giả trong vụ ” bắt sống ” tướng De Castries: Một bài của Hoàng Đăng Vinh, từ trang 56-58, một bài của Nguyễn Nghĩa Khoa, từ trang 130- 133. Cùng một sự việc bắt sống viên chỉ huy Pháp, hai người kể lại mỗi người bắt một cách!!!
Nhưng kể từ thập niên 90 với sự tiết lộ chính thức của nhiều nguốn tư liệu mới, cuốn sách của đại tướng Võ Nguyên Giáp Đường tới Điện Biên phủ lộ ra nhiều thiếu xót chủ ý và không đủ trung thực .
Chúng ta ghi lại ở đây ý kiến của Charles De Gaulle về nước Tàu như sau :
” Không có một cuộc chiến tranh hoặc hòa bình nào ở Á Châu mà không có sự dính lứu của nước Tàu”(Il n’y a ni guerre ni paix en Asie sans que la Chine soit impliquée).
De Gaulle, tác giả Jean Lacouture, tập 3, Le Souverain, trang 433, Du Seuil, tháng 10, 1968
De Gaulle quả thực đã nhìn không sai về lịch sử nước Tàu. Á Châu với hơn 3 tỉ người, với 50 thế kỷ lịch sử kể từ khi có lịch sử được gọi là lịch sử, một không gian trải dài như vô tận từ Sinai đến Kamtchatka. Trong đó; riêng nước Tàu với hơn một tỉ người với một miền địa lý chạy dài từ Tiểu Á đến bờ Thái Bình Dương mà không kể đến đường lưỡi bò, rồi từ miền bắc cực Sibéri đến biên giới nhiệt đới và cuối cùng đột ngộ bị dừng lại ở xứ Bắc Kỳ.
Sức nặng lịch sử đã đè nặng trên đất Việt với không biết bao nhiều trải nghiệm của lòng tự quyết và ý chí sinh tồn. Và lịch sử Việt Nam trong mấy nghìn năm chỉ là lịch sử đấu tranh sinh tồn.
Vậy mà không lẽ nào kẻ hậu sinh lại có thể sẵn sàng đón nhận kẻ thù truyền kiếp ấy vào nhà với tư cách là một người láng giềng tốt ..
Năm 2001, tướng Giáp cho rằng chính ông cho lệnh tạm ngưng chiến dịch Điện Biên Phủ và đổi từ đánh nhanh thắng nhanh qua lối đánh chậm, thắng chắc.
Trong hồi ký, ông cho rằng đó là một quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời làm chỉ huy của mình .. Thay vì tiến công sáng ngày 26/1, phải đợi đến ngày 13/3 mới mở cuộc tấn công vào cứ điểm Him Lam.
Thế nhưng, người ta vẫn tự hỏi, năm 1953, ai là người đã hủy bỏ kế hoạch đánh đồng bằng của tướng Võ Nguyên Giáp chuyển sang hướng tây bắc Bắc Việt mở đầu cho chiến dịch Điện Biên Phủ sau này ? Phải chăng đó là quyết định khôn ngoan của Vị Quốc Thanh và đã được ông Hồ chấp thuận?
Và Navarre đã bị sập bẫy tưởng rằng Điện Biên Phủ sẽ là một Na Sàn thứ hai của cộng sản.
Thắng lợi có tính cách quyết định của trận Điện Biên Phủ là lần đầu tiên có trọng pháo 105 và súng cao xạ 37. Trận đánh mở màn căn cứ Him Lam và Độc Lập dứt điểm nhanh, gọn phải chăng là nhờ pháo? Việc tự sát của viên sĩ quan pháo binh Pháp vì ông đã tính sai một nước cờ?
Cho nên đọc ông Giáp, tốt hơn hết chính là đi tìm những điều ông không nói đến.
Chiến thắng Điện Biên Phủ thì có, có thật, nhưng vinh dự thì có thể không .. Đó là chiến thắng không mấy vinh dự vì chiến công phải nhường lại một phần không nhỏ cho cố vấn Tàu. (Victoire sans honneur).
Tướng Giáp học hỏi cách đánh của họ, huấn luyện và trang bị là của họ, quân trang, quân dụng của họ, súng đạn là của họ, gạo ăn là của họ!
Một quân đội như thế có khác gì bọn lính đánh thuê ? Và chúng ta sau này đã phải trả cái “thuế vinh dự” của tướng Giáp và các đồng chí của ông.
Điều mong đợi hơn cả chiến thắng là chúng ta mong muốn một sự trong sáng trong lịch sử chiến tranh Việt Nam nơi các tài liệu mà không cần đợi đến sự tiết lộ của các tác giả ngoại quốc.
Tướng Giáp đã tiết lộ gì về sự giúp đỡ đồ sộ của Trung Quốc cho Việt Nam? Ông cố tình ” bỏ quên” sự giúp đở ấy để cho cuộc chiến thắng của ông thêm thần kỳ của một thiên tài quân sự!! Ông đã nướng quân như thế nào ?
Sự việc chỉ muốn lướt qua vai trò của Trung Quốc đã làm cho một số học giả Tây Phương ” hiểu lầm” trong một thời gian dài về chiến thắng Điện Biên Phủ và con người của tướng Võ Nguyên Giáp.
Về điểm này, giáo sư Qiang Zhai,-tác giả cuốn China and Viet Nam wars, 1950-1975 trả lời ban Việt ngữ đài BBC đã cho rằng:
“Việt Nam miễn cưỡng nhắc đến vai trò của Trung Quốc trong chiến thắng đối với người Pháp bởi vì tinh cảm dân tộc mạnh mẽ của họ. Họ muốn chứng tỏ với thế giới rằng chiến thăng là kết quả của những nỗ lực anh hùng riêng của họ. Về tính khả tín của của các nguồn tư liệu Trung Quốc, tôi nghĩ về phần lớn, chúng có thể tin được. Các tư liệu này thậm chí có thừa nhận những sai lầm mà cố vấn Trung Quốc phạm phải ở Việt Nam ”
Trích Cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam, BBC, 18 tháng 3, 2004
Trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất, tướng Giáp dường như muốn tách rời chiến thắng Điên Biên Phủ ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc ..Ông không muốn nhắc nhở xa gần đến điều đó.
Những chiến công kỳ diệu có một không hai trong lịch sử Việt Nam đánh thắng hai cường quốc thế giới của Võ Nguyên Giáp đã bị sói mòn khi những tài liệu Trung Quốc và phía Tây Phương được tung ra…
Trong tập tài liệu có nhan đề: Ghi chép thực về việc Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chống Phắp. Hồi ký của những người trong cuộc) – Người dịch là Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh Dy.
Những tài liệu này tương đối cân bằng và dựa trên một số thực tế khách quan không chối cãi được với các bài viết của Lưu Thiếu Kỳ, Lã Quý Ba, Vu Hóa Thẳm viết thay cho Vị Quốc Thanh về vấn đề viện trợ cho Việt Nam. Trương Quang Hòavv..
Theo tài liệu hữu quan, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam hơn 150.000 khẩu súng, hơn 3000 khẩu pháo và số lớn đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, thực phẩm và đồ dùng hằng ngày khác như màn, khăn bông, bát tráng men ..vv
Sự viện trợ không điều kiện ấy:
” Chính phủ Trung Quốc không lấy tiền, đòi nợ Việt Nam, không ký bất cứ thỏa thuận nào hoặc hiệp đinh bất bình đẳng nào với Việt Nam, không xây dựng bất cứ căn cứ quân sự và đóng một người lính nào ở Việt Nam, hoàn toàn không phải trả giá, vô tư, điều đó nói lên đầy đủ ý nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao chủ tịch “
Trích ý kiến của Lã Quý Ba, Ibid..
Trong tám chiến dịch quan trọng nhất là: Thắng lợi biên giới, Chiến thắng Tây Bắc và Điện Biên Phủ thì đều có vai trò quyết định của cố vấn Trung Quốc.
Và Vị Quốc Thanh đã kết luận:
“Tôi cảm thấy thấm thía rằng, không có viện trợ số lớn, vô tư của Trung Quốc thì thắng lợi của chiến tranh Việt Nanm chống Pháp sẽ không đến nhanh như thế “.
Trích Ghi chép thực về đoàn cố vấn Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, Ibid
Nhưng người nào viết về cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất thì không thể quên được hai biến cố xảy ra ở Trung Quốc có tầm quan trọng ảnh hưởng như một khúc quanh của cuộc chiến Đông Dương.
Đó là sự thống nhất nước Tàu vào năm 1949 và sự chấm dứt chiến tranh Cao Ly giữa Nam và Bắc Hàn năm 1953. Nhờ hai biến cố đó, Mao Trạch Đông mới rảnh tay giúp đỡ và viện trợ cho chiến tranh ở Việt Nam.
Các sự trợ giúp ấy đã được các tướng lãnh Pháp như R. Salan, Henri Eugène Navarre, P. Ély nhắc đến trong hồi ký của họ.
Tướng Salan, tác giả Indochine rouge, le message de Ho Chi Minh và nhất là Le Viet-Minh, mon adversaire, ông tiết lộ cho hay đã chỉ định thiếu tá Charles Latapy bay trên vùng biên giới Trung Quốc giáp giới với Lạng Sơn và chụp được những tấm không ảnh về những kho hàng và xe vận tải chạy về hướng Bắc Việt.
Và sau này, 1959 có cuốn La Chine et le règlement du première conflit d’Indochine, Genève 1954 của Francois Joyaux. Cuốn sách đã được trong nước dịch ra tiếng Việt
Trong cuốn sách của F. Joyaux cho thấy tháng 12/1949, một phái đoàn quân sự Việt Nam đã đến Bắc Kinh để xin viện trợ quân sự. 20.000 binh đội Việt Minh đã được đưa sang Trung Quốc huấn luyện và được trang bị đầy đủ khi về lại Việt Nam.
Và kết quả cụ thể là kể từ 1950, cuộc viện trợ đã đem lại những chiến thắng cho Viet Minh tại Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Kay, Đông Khê, Thất khê. Trước đây, việc viện trợ chỉ đạt tới con số 1000 tấn/ một tháng. Sau tăng đến 4000 tấn/ tháng trong đó có 2000 tấn lương thực .. Từ 1952, Trung Quốc gửi sang hàng vạn kỹ thuật viên nhiều ngành khác nhau như: truyền tin, bộc phá, bảo quản vật tư, pháo binh …
Tuy nhiên, tài liệu còn trích dẫn trong cuốn Hồi Ký của Kruschev kể lại một chi tiết rất quan trọng và tiết lộ một thực tế chiến tranh không mấy sáng sủa về phía quân đội của tướng Giáp. Theo Krustchev cho thấy rằng Phong trào kháng chiến của Việt Nam sắp tan rã vì Chu Ân Lai đã tuyên bố với ông ta:
“Đồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi (tức với Chu Ân Lai) rằng tình hình Việt Nam là tuyệt vọng và nếu chúng ta không có được một cuộc ngừng bắn thì người Việt Nam sẽ không kháng cự được lâu hơn nữa với Pháp . Cho nên, việc họ quyết định lui đến biên giới Trung Quốc và nếu việc đó là cần thiết, thì họ muốn Trung Quốc sẵn sàng đưa quân vào Việt Nam như Trung Quốc đã làm với Bắc Triều Tiên. Nói một cách khác, người Việt Nam muốn chúng tôi giúp họ đuổi người Pháp “
Trích tóm lược cuốn Trung Quốc và việc giải quyết chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, bản dịch, trên Diễn Đàn Thế kỷ ..
Hiện nay, chúng ta có nhiều cơ hội để đọc các tài liệu từ phía Trung Quốc như các tác giả Shi Zhe, Tong Xiaopeng, Zeng Sheng Qiang Zhai vv. Đó là một kho tư liệu quý báu đã mở ra cho người đọc.
Mới đây, Qiang Zhai, giáo sư sử học tại đại học Auburn University trong cuốn China& The Viet Nam wars, 1950-1975 cho thấy sự hỗ trợ ” không điều kiện” của Mao Trạch Đông trong hai cuộc chiến như thế nào.
Đây là những tiết lộ dựa trên tài liệu không chối cãi được. Đọc để nhìn ra được bản chất cuộc chiến tranh ấy mang dấu ấn gì và tầm ảnh hưởng trên những quyết địch sinh tử về cán cân quyền lực đưa đến thắng lợi chung cuộc. Trung Quốc đã tài trợ vũ khí, lương thực. Cạnh đó còn giúp đỡ nào là huấn luyện, nào là trau dồi ý thức hệ, nào là sách lược chiến tranh, nào là cách đánh, nào là kinh nghiệm chiến trường rút tỉa được từ cuộc chiến tranh Triều Tiên.
Vậy mà có sách vở tài liệu chiến tranh nào của Việt Nam nói đầy đủ về sự “trợ giúp quốc tế ” này không? Theo tôi được biết chính thức là không có tài liệu nào cả. Việt Nam sau cuộc chiến tranh đã tránh né viết đầy đủ công cuộc việc viện trợ cũng như vai trò của Trung Quốc.
Nhưng có ai ngờ rằng, từ một sợi chỉ, cây kim cũng phải nhờ vào Trung Quốc? Không có sự trợ giúp của Trung Quốc, cộng sản Việt Nam không thể tiến hành hai cuộc chiến được.
Có ai biết rằng một “đôi dép râu”, một chiếc mũ cối đều do Trung Quốc chế tạo và cung cấp cho Việt Nam? Một đôi dép cao su có đáng giá là bao nhiêu mà cũng không sản xuất nổi?
Giả dụ không có Trung Quốc giúp hàng triệu đôi dép râu thì chắc hẳn binh lính cộng sản sẽ đi chân đất vào đánh miền Nam. Những đôi dép râu vừa nhẹ về tổn phí sản xuất, nhẹ nhàng, bền bỉ, lội bùn sình lầy, sông ngòi, trên rừng, đạp lên chông gai hơn hẳn mọi mặt về đôi bốt của phía địch. Không có sự giúp đỡ hàng 10 ngàn xe vận tải thì binh đội Bắc Việt sẽ phải để ra 6 tháng trời đi bộ vào miền Nam đánh trận? Và lấy gì để ăn nếu không có những khẩu phần lương khô đầy đủ chất dinh dưỡng của Trung Quốc? Không có xe tăng của Liên Xô thì lấy gì húc đổ Dinh Độc Lập?
Những món nợ ấy ngày này đến lượt chúng ta phải trả !!! Ông Hồ Chí Minh hơn ai hết biết rõ điều đó, lo sợ về điều đó. Chẳng phải bây giờ chúng ta mới mất đất, mất biển mà mất ngay từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất .
Chúng ta không biết gì chỉ vì Đảng ngậm tăm dấu kín.
Theo Vũ Thư Hiên:
” Tại vùng mỏ Quảng Ninh, quân Trung Quốc ngang nhiên ngăn cấm người Việt Nam đi vào khu vực đóng quân của chúng, thậm chí bắt giữ các chuyên gia địa chất Liên Xô đi lại. Chỉ đến khi chính quyền Việt Nam can thiệp, những chuyên gia này mới được thả . Trở về Hà Nội, họ nói thẳng với thủ tướng Phạm Văn Đồng: ” nếu đến Việt đồng chí báo trước để về sau những việc tương tự không xảy ra nữa” . Nghe những lời mỉa mai cay đắng ấy, ông thủ tướng im như thóc “.
Trích Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, trang 402
Cũng theo Vũ Thư Hiên thì:
“Việc đảng cộng sản mời quân đội Trung Quốc vào nước mình là chuyện mọi người đều biết. (.. ) Trong việc viết báo, tôi thường có mặt ở các địa phương quân đội Trung Quốc đóng Quân đội Trung Quốc đóng trên toàn bộ khu mỏ Quảng Ninh, tự trị Việt bắc, một phần khu Tây Bắc và dọc quốc lộ 1 tới tận Yên Sở, phía Nam Hà Nội) được nghe lời phàn nàn của dân chúng về chuyện Đảng và nhà nước để quân Trung Quốc vào. Người ta hỏi tôi như hỏi một cán bộ hiểu biêt, hi vọng tôi giaqi? đáp câu hỏi nhức nhối đó . Khốn nạn, tôi có thể nói được gì cho họ trong khi chính tôi cũng không hiểu nổi, và đôi khi còn không được những quyết định tự quyền của Duẩn-Thọ trước khi chúng lộ ra, những quyết định cực kỳ ngu xuẩn mà, theo chúng tôi, chỉ có những thằng điên mới hành động như thế “.
Trích Vũ Thư Hiên, Ibid, trang 405
Một cuốn sách cũng cần được lưu ý là cuốn Vietnamese Communists’ Relations with China and the Second Indochina Conflict, 1956-1962 của Ang Cheng Guan. Cuốn sách giúp chúng ta hiểu sâu sắc mối liên hệ phức tạp giữa đôi bên. Và một lần nữa, ở các trang từ 143-147 nói về cuộc viếng thăm của Thủ tướng Chu Ân Lai vào năm 1960 chi tiết hóa thêm những sự trợ giúp từ phía Trung Quốc như các chương trình dẫn thủy nhập điền, kỹ nghệ luyện kim, kỹ nghệ hóa học, xây dựng cầu đường giúp đỡ chẳng những về mặt quân sự mà còn kinh tế như xây dựng 72 cơ sở kỹ nghệvv.
Các món nợ ấy cứ thế mà chồng chất lên. Thời điểm Hồ Chí Minh- Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai còn sống thì Hồ Chí Minh có thể cười trừ “xóa nợ”. Nhưng đến lượt gặp Đặng Tiểu Bình thì cười trừ, giã lả không được nữa. Đã có lần Hồ Chí Minh gặp Đặng Tiểu Bình, ông này ngồi yên, không thèm nhúc nhich. Hồ Chí Minh đành nhẫn nhục, ép bụng đến bắt tay họ Đặng!
Giải pháp không giải pháp của Hoa Kỳ vào giờ phút chót của trận Điện Biên Phủ
Trước giờ tuyệt vọng của Điện Biên Phủ, người ta trông đợi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Vào lúc ấy, Pháp chỉ có không đầy 100 máy bay oanh tạc mà nhiều cái ở trong tình trạng bất khả dụng .. Cựu tổng thống Nixon, trong cuốn No more Viet Nam của ông cho rằng cái sai lầm số một của Hoa Kỳ tại Việt Nam là đã không sớm can thiệp trực tiếp vào trận Điện Biên Phủ. Chỉ cần điều động môt hàng không mẫu hạm với các máy bay B.29 ngày đêm thả bom xuống lòng chảo ĐBP, hỗ trợ thời điểm chiến lược thì cuộc chiến có thể kết thúc một cách thuận lợi cho binh đội của tướng De Castries đang bị vây khốn một cách tuyệt vọng trong một tuần lễ.
Trích No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 31
Và nhờ thế tranh được di sản một cuộc chiến kéo dài thêm 21 năm nữa.
Nếu như, lại nếu nữa là đề nghị của Đề đốc Hải quân Arthur Radford đưa ra kế hoạch xử dụng 60 máy bay B-29 từ Phi Luật thực hiện những cuộc oanh tạc ban đêm đến ĐBP hoặc gọn nhẹ hơn nữa theo đề nghị của ngoại trưởng Foster Dulles cho phép thả vài quả bom nguyên tử cỡ nhỏ xuống ĐBP để vô hiệu hóa Việt Minh thì hẳn kết thúc cuộc chiến đã khác…
Tuy nhiên, Mỹ là xứ dân chủ, sau bài diễn văn thăm dò của Phó tổng thống Nixon về những biện pháp mạnh quân sự cần làm như việc can thiệp trực tiếp của quân đội Mỹ vào chiến tranh Đông Dương thì 68% dân chúng Mỹ không đồng ý Mỹ can thiệp vào Đông Dương .
J.Prados cũng nhận xét:
” Ở một giai đoạn tồi tệ nhất, ngoại trưởng Dulles đã công khai giúp cho Pháp võ khí nguyên tử chiến lược với hy vọng có thể giải tỏa được áp lực quân sự của Viet Minh(..) Và đến ngày 15/4, Phó TT Hoa Kỳ Richard Nixon đã đọc một bài diễn văn được cho là một thăm dò rộng rãi về sự can thiệp của Hoa Kỳ xem như là thời gian thuận lợi để cứu vãn Á Châu”.
Trích Viet Nam, John Prados, trang 29
Nhưng theo ông Nixon, lý do chính yếu khiến Hoa Kỳ không thể trực tiếp can thiệp vào Việt Nam vì thiếu sự hỗ trợ của nước Anh, ông viết :
“Tiếc là đề nghị của vị đề đốc này khi sang Anh Quốc đã bị thủ tướng W. Churchill bác bỏ . Churchill cho rằng Anh quốc đã không chiến đấu cho quyền lợi nước Anh tại Ấn Độ thì không vì lý do gì họ lại tham dự vào cuộc chiến tranh Đông Dương giúp người Pháp”.
Trích No more Viet Nam, Richard Nixon, trang 30
Cuối cùng như người ta được biết Hoa Kỳ đã đứng khoanh tay đứng nhìn người Pháp chiến đấu một mình để nhận lấy một kết quả thảm bại- một thảm bại không chỉ dành riêng cho người Pháp- mà mất cơ hội ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản .
Pháp đã thua không phải vì tổn thất sinh mạng. (tổn thất phía Việt Minh gấp 5 lần hơn) mà vì ý chí chiến đấu nói chung đã không còn nữa!! như nhận xét của Nixon:
” Trận Điện Biên Phủ đánh một đòn chí tử vào tinh thần của quân đội Pháp”.
No more Viet Nam, R. Nixon, trang 28
Tướng Georges Catroux cũng đã viết một bản phúc trình gửi ngày 3/12/1955 mở đầu như sau:
“Cuộc thất trận Điện Biên Phủ nói riêng về mặt quân sự nó không chứng tỏ một cán cân quân sự bất lợi cho sự thất trận ở Đông Dương, nhưng là do hậu quả tâm lý đối với dân chúng có phần mệt mỏi về một cuộc chiến tranh không được mọi người đồng ý vì nó như thể kéo dài không biết đến bao giờ và người ta chờ đợi một cách nào đó nó phải chấm dứt”.
Rapport concernant la conduite des Opérations en Indochine sous la Direction du Général Navarre, in Elgey, Histoire de la IV République, vol 2, annex I, pp 641-722, Ibid The Indochine Experience, Arthur J. Dommen, trang 233.
Trung Quốc, Liên Xô, Việt Minh đã hợp đồng để đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Phần vinh dự dành cho tướng Gíáp vì thế thật là nhỏ. Ông đã thật sự không muốn hiểu điều đó. Cùng lắm, ông chỉ là người đứng ra đại diện nhận cái chiến công ấy thay cho Trần Canh và Vi Quốc Thanh !!
Những tổn thất của đôi bên trong trận Điện Biên Phủ
Bộ tham mưu ĐBP lặng lẽ nối đuôi nhau bước ra khỏi căn hầm. Đứng trên những bao đất rách phủ nóc hầm bằng thép cong, ba người lính Việt Minh trong đó có trung đội trưởng Chu Bá Thế đang cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Chuyện một lá cờ đỏ phất phới trên mái hầm chỉ huy sở Điện Biên Phủ vào hồi 17 giờ 40, ngày 07 tháng 05 năm 1954 ấy là chuyện chắc chắn có. Hàng nghìn người đã trông thấy và nhiều người đã nói với tôi. Ngược lại, không một ai trông thấy lá cờ trắng trên nóc hầm. Sau này ở Hà Nội, tôi đã được xem những đoạn phim quay cảnh thật: Không đâu thấy có treo cờ trắng cả. Tập đoàn cứ điểm đã rơi vào tay Việt Minh, không phải là nó đầu hàng.
1 giờ 50 ngày 08 tháng 05 năm 1954, máy bay chỉ huy lượn trên trời thu được bức điện cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ:
Đến đây thì thật là chấm hết.
Chấm hết chiến tranh Đông Dương, chấm hết chế độ thuộc địa Pháp.
Ngày 08 tháng 05 năm 1954, một máy bay ném bom 4 động cơ Privateer của phi đội 28F Hải quân đi ném bom hệ thống giao thông hào vận tải của Việt Minh trên đường 41, bị bắn rơi tại Tuần Giáo.
Người phi công lái máy bay, trung úy Hải quân Monguillon và tám hạ sĩ quan phi hành đoàn là những người Pháp cuối cùng bỏ mạng trong trận Điện Biên Phủ.
Một cuộc chiến kéo dài 7 năm, 7 tháng, 1 ngày. Một cuộc chiến đã để lại những vết thương và con số thương vong khó có thể hàn gắn lại. Nhà thơ Nguyễn Huy Tưởng, sau khi tham quan chiến trường Điện Biên Phủ đã ghi lại như sau: Điện Biên lẫn lộn giữa hoang vu và bàn tay người, giữa gian khổ và cố gắng, giữa hỗn độn và tổ chức, giữa chiến tranh và xây dựng, giữa cái cổ sơ (trâu bò, lợn…) và cái khoa học (máy cầy, điện), giữa cái đang lùi và cái đang lên, giữa cái nghèo nàn túng thiếu và cái tương lai đầy triển vọng, tất cả đều ở trong một sự hỗn độn, ngổn ngang, chờ đợi, vươn lên…
Một cuộc chiến đã tiêu hao hằng bốn trăm ngàn sinh linh và hàng tỉ bạc mà cho đến nay chưa ai biết rõ con số đích thực là bao nhiêu?
Đó là những con số làm phiền, làm chúng ta phải suy nghĩ.
Cùng lắm, nếu may mắn có được những con số thì vẫn là những con số ảo, số âm, số trừ.
Một người chết hay trăm người chết có thay đổi gì được bộ mặt của chiến tranh? Có những người bên kia sợ Hòa Bình, thì cũng có những người sợ những con số như bóng ma.
Những bóng ma của mẹ liệt sĩ đội mồ lên đi kiện
(Thơ Nguyễn Duy).
Cho nên, những con số chính thức vẫn là những con số đáng nghi ngại nhất:
Abondance de bien ne nuit pas, dit-on, mais l!excès dinformation sur un sujet précis peut induire les consommateurs de nouvelles que nous sommes tous, en confusion, sinon en erreur. La surinformation est vite synomymes de désinformation.
Đã có bao nhiêu binh lính của hai bên đã bỏ mình trong trận đánh cuối cùng này?
Hơn thế nữa, người Pháp đã đánh giá sai lầm về khả năng tác chiến của Việt Minh và ngay cả những người lãnh đạo của họ. Một sai lầm mà Napoléon đã từng viết: Đối với một nhà chiến lược và có lẽ cả với một nhà chính trị nữa, thì sai lầm lớn nhất không thể tha thứ được là đánh giá thấp đối thủ.
Nhưng điều đáng ghi nhận là mặc dù không có hành động quyết liệt can thiệp để giải cứu ĐBP, qua cái nhìn của Mỹ và đồng minh của họ, trận chiến ĐBP báo hiệu một chiến thắng có tầm vóc chẳng những lịch sử đối với Việt Nam và cả thế giới, mà còn là dấu hiệu về sự đe dọa của chủ nghĩa Cộng sản nữa.
Cuối cùng thì nước Pháp đơn độc chiến đấu mà kết quả là cuộc thất trận mà nhiều người như tờ Paris Match mới đây với nhan đề: Điện Biên Phủ, cách đây 50 năm, những ảo tưởng tan ra mây khói.
Nói dến chiến công thì có thể ai cũng biết rồi .. Nhưng nói đến những tổn thất thì cho đến giờ phút này, phía Việt Minh vẫn chưa bạch hóa ra bên ngoài .. Mọi ghi chép về tổn thất ở đây về phía Việt Minh chỉ là phỏng đoán mà thôi ..
– Phía quân đội Pháp thì tương đối minh bạch rõ ràng:
Giữa giai đoạn từ 20/11/1953 đến 7/5/1954, có tất cả 15.709 đồn trú tại Điện Biên Phủ .
Cho đến ngày 7/5 thì số binh đội Pháp chỉ còn lại 10.133 ơ/ Điên Biên Phủ và 1588 ở căn cứ Isabelle, công chung là 11.721 mà trong đó có 4.436 bị thương . Trong số bị thương có 858 người được coi là bị thương nặng. 858 người này đã được Hồng Thập Tự di chuyển đi với sự thỏa thuận của Việt Minh.
Số còn lại là 10.863 người trong đó có 3.578 bị thương .. Và chỉ 4 tháng sau con số 10.865 người này thực sự còn sống sót, là 3.290 người.
Như vậy còn lại 7.573 người hoặc đã bị chết trong lúc di chuyển, hoặc ốm đau bệnh tật không thuốc men, hoặc bị giam giữ tại các trại tập trung, hoặc trại cải tạo mà không bao giờ được chính thức trao trả cho Pháp. Tỉ lệ chết trong các trại tù là 60%.
Như vậy chính thức khi tàn cuộc chiến, người Pháp chết và mất tích khoảng 4000 người ..c’est la marque du totalitarisme. La signature de l’idéologie. Cette absence de sentiment, de compassion, d’humanité, est caractéristique de la sauvagerie idéologique propre au xxe siècle. L’histoire de l’humanité est riche d’actes de sauvagerie, qui étaient des actes de vengeance, de haine exacerbée, de conquête du pouvoir par un individu ou un clan.
Ici il s’agit d’une haine déshumanisée, dépersonnalisée. Il s’agit de la mise en œuvre méthodique, dépourvue de tout état d’âme, d’un plan minutieusement défini par des instances supérieures. Boudarel n’a fait qu’obéir à ces instances supérieures: l’appareil communiste international, représenté par le parti communiste français, et un temps, par délégation, par le parti communiste vietnamien. On connaît cette défense: je n’ai fait qu’obéir. Cela n’enlève rien à la responsabilité personnelle, mais c’est absolument vrai: Boudarel n’a fait qu’obéir, et toute l’horreur de son action vient précisément du fait qu’il a obéi, qu’il a méticuleusement obéi, en toute conscience de ce qu’il faisait.
On connaît les textes du Viêt-minh, très précis, concernant le traitement des prisonniers de guerre, leur «rééducation» et leur libération. Boudarel les a suivis à la lettre. Si l’on en croit les témoignages de ses victimes qui ont connu d’autres camps que le camp 113, il est même le seul responsable de camp à avoir suivi à la lettre les consignes du Viêt-minh (en en rajoutant un peu pour être sür de ne pas être en dessous de ce qui était demandé). Les responsables viets étaient généralement moins déterminés dans leurs «cours politiques», soit parce qu’ils ne voyaient pas l’intérêt de convertir des moribonds, soit parce qu’ils jugeaient impossible de convertir réellement les « soldats de l’impérialisme», soit parce qu’ils voulaient libérer leur pays mais ne croyaient pas à la phraséologie communiste.
Boudarel, lui, y croyait dur comme fer. Il était l’apparatchik idéal.
Il n’était pas un soldat. Il n’était pas de ces soldats français qui avaient déserté pour se mettre au service du Viêt-minh. Il n’était pas un des soldats blancs d’Hô Chi Minh. Boudarel ne s’est jamais battu. Il était un fonctionnaire du régime. Il n’a pas pris les armes contre l’armée française. Il n’a même jamais levé la main contre un soldat français.
Il n’a cessé de le dire pour sa défense. Mais c’est ce qui l’accuse de la façon la plus claire. C’est là qu’est le crime contre l’humanité chimiquement pur, sans lien avec des crimes de guerre. Boudarel a nié l’humanité des prisonniers français, ses compatriotes, il les a dépouillés de toute dignité humaine, il les a fait crever comme personne ne ferait crever son chien, et pendant qu’ils crevaient, ils devaient encore chanter les louanges du communisme, et subir l’atroce dialectique marxiste-léniniste.
La différence entre les camps communistes et les camps nazis est là. Les tortionnaires nazis n’avaient pas d’instructions pour entreprendre une absurde rééducation de leurs prisonniers voués à la mort. Ils ne leur demandaient pas de célébrer les bienfaits du nazisme. Il n’y a eu aucun Boudarel dans les camps nazis. C’est pourquoi le procès Boudarel aurait dû aboutir. Non seulement pour condamner un tortionnaire particulièrement inhumain, mais pour préciser la jurisprudence du crime contre l’humanité.
Mais le procès Boudarel ne pouvait aboutir. Parce que, si rien n’interdVà khoảng 7000 người đã chết trong nhà tù cộng sản hoặc mất tích. Vậy mà tôi được đọc một bài viết: Lòng nhân đạo của ta, của đại tá, PGS Trần Lưu Khôi .
Điện Biên Phủ qua những Hồi ức, trang 137.
Tướng Võ Nguyên Giáp điều động các đại đoàn 304,308, 312, 316 và 351 cộng chung với các đơn vị hậu cần là trên 100.000 người .
Theo ước tính của người Pháp thì có khoảng 8000 binh đội Việt Minh chết và 15.000-20.000 bị thương .
Theo ước tính của Bernard Fall thì có khoảng 8000 binh đội Việt Minh và 2000 binh đội Pháp được chôn vùi rải rác ở Điện Biên Phủ. Bernard Fall chỉ định chính xác hơn là xác chết của Viet Minh nằm rải rác tại căn cứ Beatrice và Gabrielle trên đồi Eliane hoặc tại giao thông hào ơ Huguette, Claudine và Isabelle.
Về xác chết các binh lính Pháp thì dễ được nhận diện hơn vì thường được quấn trong các vải dù .
Năm 1962, Jules Roy, một sĩ quan trong quân đội Pháp, tác giả cuốn La bataille de Dien Bien Phu, gốc người Algérie có gặp tướng Giáp và yêu cầu ông thu gom các xác chết của người Pháp để chôn vào một nghĩa địa như một tưởng niệm. Tướng Giáp hứa thi hành , nhưng cho đến nay chẳng biết đã thực hiện trọn vẹn chưa ..
Bernard Fall Hell in a very small place, trang 448-449.
Kinh cầu hồn cho những nấm mồ ở Điện Biên Phủ
Tôi nhận ra một điều là những người cộng sản, sau chiến thắng Điện Biên Phủ hầu hết đều rơi vào tâm trạng say mê chiến thắng- ivre dec victoire-. Theo sử gia Heinz Schuttte, ông đã có dịp phỏng vấn nhiều người ở Hà Nôi thì họ đều có tâm trạng đó” Vì đó là chiến; thắng của họ như một thời lãng mạn chính trị Nhà thơ Huy Cận nói:
” Ta lãng mạn bởi vì ta yêu nước”.
Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954-1960.
Sự bộc phát lãng mạn và nỗi mừng của họ có thế hiểu được .. Nhưng một khi nỗi mừng chiến thăng qua đi nhanh thì đọng lại là những mất mát đủ thứ không thể hàn gắn được.
Những bữa cơm đạm bạc, những vật lộn với đời sống thực tế, những gò bó chặt hẹp kiểm soát về tư truỏng đã cấy mầm cho sự nghi ngờ và tư tưởng phản kháng.
Những người không trực tiếp tham dự vào cuộc chiến dễ có cái nhìn nhân bản, một góc nhìn khác về cuộc chiến mà sự sự tàn khốc của chiến tranh với những xác người chết trở thành mối quan tâm hàng đầu ..
Hãy bắt đầu bằng những tâm tình của một con người nhìn lại cuộc chiến trong chiều kích nhân loại bằng tâm thức cảm thông và lòng mẫn cảm!!!
Nhìn lại quang cảnh Điện Biên Phủ, thật khó mà mường tượng được những gì đã xảy ra ở đó cách đây hơn 50 năm .. Nếu không có những ngôi mộ nằm rải rác đó đây thì người ta không thể mường tượng được trước đây đã xảy ra những cuộc giao tranh ác liệt nơi các địa danh như ngọn Éliane, ngọn Béatrice hay Étienne 1 và 2 ..Làm sao có thể hình dung ra những cụm khói đen bốc lên từ bom Napalm làm cháy đen cả mặt đất? Và những giao thông hào chằng chịt, mặt đất vũng bùn mà nhiều xác chết đã thối rửa, chết ở nhiều tư thế khác nhau. Những lớp hàng rào thép gai nhiều lớp chằng chịt bị xé rách bởi bộc pha và xác người nắm vắt trên những hàng rào thép gai ..
Trong cái không gian máu lửa ngụt trời huyền thoại trước đây, chỉ còn thấy một nghĩa địa với 500 ngôi mộ ngưới chiến sĩ Việt Minh đang nằm an nghỉ – nơi đây-vĩnh viễn .. Nghĩa địa hình như ở cách xa con đường chính một chút, dưới chân ngọn Éliane. 500 người cùng chung một số phận đã tham dự những trận đánh cuối cùng và đã dành được chiến thắng .
Họ nằm giữa một thiên nhiên an bình, chung quanh cây cỏ xanh rì, cỏ cây đầy hoa lá. Có tiếng chim chóc trong các tàng cây.
Họ là một con số nhỏ trong số 10 ngàn người đã bỏ xác tại nơi đây trong một cái lò sát sinh đã được thi vị hóa …
Trên ngọn Béatrice, có tấm bia ghi lại chiến công của anh chiến sĩ Phan Đình Giót, người đã lấy thân mình lấp lỗ châu mai để đồng đội tiến lên ..
Anh Giót phải chăng cũng là biểu tượng anh hùng cần thiết như một Lê Văn Tám của miền Nam ? Tôi đọc lại trang ký của đại đội 58 viết về anh Phan Đình Giót mà lợm giọng, muốn nôn… trang 197, sách Điện Biên Phủ qua những trang Hồi ức ..
Nhưng đối với đồng đội anh Phan Đình Giót nằm ở dưới kia và cả những ngườii mà trước kia là kẻ thù địch của anh thì biên giới thù nghịch không còn nữa. Sự cay đắng hay kiêu hãnh nào có nghĩa lý gì nữa ! Không có vinh quang mà cũng không có chiến thắng vì cái chết đem lại sự bình đẳng tuyệt đối cho những người nằm ở đây?
Họa chăng chỉ còn lại bi kịch cho những người vợ, người chị, người mẹ- nhất là người mẹ- mỗi lần nghĩ tới con thì lén lau giọt nước mắt vì biết rằng con mình sẽ không bao giờ trở về…
Ngoài kia, nắng vẫn lên!!
Nhưng chỉ còn lại những người đàn ông, đàn bà mà bao đời vẫn oằn vai gánh những khổ nhọc bên cạnh những con trâu ngập bùn tới bụng cho cây lúa mọc lên ..
Cuộc sống của họ từ bao đời vẫn kéo dài cuộc sống giữa những thung lũng, những ngọn đồi, vất vả tát từng gầu nước vào ruộng và chăm sới từng thước đât trước nhà để trồng rau.
Đó chính là những con người mà anh em họ cha ông họ đã từng ghi lại những chiến thắng ở Điện Biên Phủ! Nào họ đã được gì và mất gì? Bao nhiêu lần bác Hồ cho người đến thu thóc gạo “vay”, nào đã trả xong chưa?
Thật tình tôi không biết.
Quả thật, đúng như những lo ngại của Leclerc, cuộc chiến Điện Biên Phủ đã chấm dứt mọi tham vọng của người Pháp ở Đông Dương.
Bộ tham mưu ĐBP lặng lẽ nối đuôi nhau bước ra khỏi căn hầm. Đứng trên những bao đất rách phủ nóc hầm bằng thép cong, ba người lính Việt Minh trong đó có trung đội trưởng Chu Bá Thế đang cầm một lá cờ đỏ sao vàng. Chuyện một lá cờ đỏ phất phới trên mái hầm chỉ huy sở Điện Biên Phủ vào hồi 17 giờ 40, ngày 07 tháng 05 năm 1954 ấy là chuyện chắc chắn có. Hàng nghìn người đã trông thấy và nhiều người đã nói với tôi. Ngược lại, không một ai trông thấy lá cờ trắng trên nóc hầm. Sau này ở Hà Nội, tôi đã được xem những đoạn phim quay cảnh thật: Không đâu thấy có treo cờ trắng cả. Tập đoàn cứ điểm đã rơi vào tay Việt Minh, không phải là nó đầu hàng.
1 giờ 50 ngày 08 tháng 05 năm 1954, máy bay chỉ huy lượn trên trời thu được bức điện cuối cùng của quân Pháp ở Điện Biên Phủ:
Đến đây thì thật là chấm hết.
Chấm hết chiến tranh Đông Dương, chấm hết chế độ thuộc địa Pháp.
Một cuộc chiến kéo dài 7 năm, 7 tháng, 1 ngày. Một cuộc chiến đã để lại những vết thương và con số thương vong khó có thể hàn gắn lại
Một cuộc chiến đã tiêu hao hằng bốn trăm ngàn sinh linh và hàng tỉ bạc mà cho đến nay chưa ai biết rõ con số đích thực là bao nhiêu?
Đó là những con số làm phiền, làm chúng ta phải suy nghĩ.
Cùng lắm, nếu may mắn có được những con số thì vẫn là những con số ảo, số âm, số trừ.
Một người chết hay trăm người chết có thay đổi gì được bộ mặt của chiến tranh? Có những người bên kia sợ Hòa Bình, thì cũng có những người sợ những con số như bóng ma.
Những bóng ma của mẹ liệt sĩ đội mồ lên đi kiện
(Thơ Nguyễn Duy).
Cho nên, những con số chính thức vẫn là những con số đáng nghi ngại nhất:
Abondance de bien ne nuit pas, dit-on, mais l!excès dinformation sur un sujet précis peut induire les consommateurs de nouvelles que nous sommes tous, en confusion, sinon en erreur. La surinformation est vite synomymes de désinformation.
Đã có bao nhiêu binh lính của hai bên đã bỏ mình trong trận đánh cuối cùng này?
Hơn thế nữa, người Pháp đã đánh giá sai lầm về khả năng tác chiến của Việt Minh và ngay cả những người lãnh đạo của họ. Một sai lầm mà Napoléon đã từng viết: Đối với một nhà chiến lược và có lẽ cả với một nhà chính trị nữa, thì sai lầm lớn nhất không thể tha thứ được là đánh giá thấp đối thủ.
Nhưng điều đáng ghi nhận là mặc dù không có hành động quyết liệt can thiệp để giải cứu ĐBP, qua cái nhìn của Mỹ và đồng minh của họ, trận chiến ĐBP báo hiệu một chiến thắng có tầm vóc chẳng những lịch sử đối với Việt Nam và cả thế giới, mà còn là dấu hiệu về sự đe dọa của chủ nghĩa Cộng sản nữa.
Cuối cùng thì nước Pháp đơn độc chiến đấu mà kết quả là cuộc thất trận mà nhiều người như tờ Paris Match mới đây với nhan đề: Điện Biên Phủ, cách đây 50 năm, những ảo tưởng tan ra mây khói.
Những tiết lộ cuối đời của đại tướng Võ Nguyên Giáp qua nhà văn Trần Khải Thanh Thủy
Theo bà Trần Khải Thanh Thủy, vì bố bà có quan hệ quen biết với tướng Giáp nên bà đã có theo bố hoặc bạn bè của bố đến thăm tướng Giáp tại nhà số 25 đường Hoàng Diệu. Hoặc đến dự những buổi họp truyền thống của trường Lục quân ngày 15 tháng tư hàng năm ..
Trong dịp họp mừng sinh nhật thứ 84 của ông, tướng Giáp đã tâm sư:
“Tôi đã tưởng sẽ đem những bí mật của mình xuống mồ, nhưng không ngờ trời cho tôi thọ đến vậy. Vì thế, trong lần sinh nhật thứ 84 này, tôi xin tiết lộ bốn bí mật trong cuộc đời của tôi để anh em biết:
– Điều thứ nhất: Năm 1972 còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành phố Quảng Trị. Khi đó tôi vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động, khiến địch trở tay không kịp. Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hằng ngày, hằng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay. Không ngờ quan điểm của tôi bị Ba Duẩn ( Lê Duẩn) bác bỏ không thương tiếc. Giữa Hội nghị, anh Ba đập tay xuống bàn quát: thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy, tôi yêu cầu cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi . Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm .
Kết quả trong 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu chập choạng tối, một đại đội ta ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chi còn được mươi người, mười lăm người ..Lần nhiều nhất; 35 đồng chí,. Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí … Như vậy, trung bình mỗi ngày ta tiêu hao một đại đội chủ lực( khoảng 135 người) và 60 ngày đêm tấn công cổ thành, ta mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên, trí thức Việt Nam.
– Điều thứ hai sau hội nghị Paris anh Ba Duẩn ra chỉ thị ngưng tất cả các cuộc tấn công lại, chỉ tập trung củng cố lực lượng gia tăng sản xuất, nuôi quân cho tốt, sau vài năm phát triển vượt bực sẽ đánh một trận dứt điểm, không để cho địch có cơ ngóc đầu phản công như hồi Tổng tiến công xuân Mậu Thân .. Kế hoạch đưa ra, nhiều người không đồng ý, nhưng là lệnh của cấp trên buộc phải chấp hành .. Nhưng du kích, bộ đội các địa phương vẫn tiếp tục tấn công .. Nhờ đó có chiến thắng 30 tháng tư.
-Điều thứ ba. Khi biết sớm muộn gì ta cũng vào Dinh Độc Lập, tôi đề nghị ta nên tôn trọng các phái đoàn ngoại giao Mỹ như đại sứ quán. Không ngờ Ba Duẩn trợn mắt quát: Không được, phải đánh chết những con chó, ngay cả khi nó rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại giao hay Lầu năm góc, đều là kẻ thù của nhân dân ta, vì thế phải quét sạch chúng đi không đê một tên xâm lược nào trên mảnh đất của chúng ta.
Chính vì thế mà mới xảy ra cái cảnh hỗn loạn trong các ngày 28,29, 30 tháng tư năm 1975. Hàng chục máy bay lên thẳng bị hàng trăm người đeo bám, để lại một dấu ấn nhục nhã trong lịch sử nước Mỹ. Ngay sau đó, ta đã phải trả một giá rất đắt cho chính sách cực đoan của mình. Hiếu thắng một giây, kiêu ngạo một giờ mà đổi bằng cái giá của 20 năm cấm vận. Cả nước vật lộn trong mưu sinh, khốn khó của thời hậu chiện.
-Điều thứ tư, ngay từ cuối 1979, khi biết Polpot gây ra họa diệt chủng ở Campuchia, tôi đã phát biểu trong cuộc họp: Trong hai thằng Lào và Campuchia, chỉ có thằng Lào là anh em với mình. Còn thằng Campuchia sẽ phản lại mình, không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của Quốc tế. Lê Duẩn không nghe. Sau hai cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã mất cả triệu người con ưu tú. Nay thanh niên trai tráng rường cột lại bị điều động bắt lính vô tội vạ để sang chiến đấu tai Kampuchia ..
Bởi cùng học thàyTrung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, quấy rối du kích, đánh nghi binh, đánh rồi rút lui, rải mìn vô tội vạ … Trung bình một ngày, anh em bác sĩ phải cưa chân 40 chiến sĩ do bị mìn cài .. Chỉ sau một tuần là số chân chất cao như núi .. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa tỏa ra khắp vùng.
Nay ở tuổi 98 tuổi, không biết ông còn tiết lộ thêm điều gì nữa không? Chỉ có điều, mỗi lần nghĩ về tướng Giáp, tôi lại thấy lòng mình xao động lạ lùng . Một chút thương hại, một chút cảm phục, một chút trách móc, một chút trào lộng.
Ông Cũng là người chấp bút cho cuốn: Đại thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng. Tác phẩm chính của ông là cuốn: Bác Hồ trên đất nước Lê Nin.
Đây là giai đoạn ông Hồ đi, đi về hoạt đông trên đất nước Lê Nin từ 1923 đến 1938 . Nhân dịp Lê Nin mất, ông Hồ viết:
” Khi còn sống, Người là người cha, người thầy, người đồng chí và là vị cố vấn của chúng ta. Ngày nay Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc sống cách mạng xã hội. Lê Nin bất diệt sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
Tác giả Hồng Hà cho thấy khi ở đất nước Lê Nin, ông Hồ quyết tâm học hỏi, phục vụ cho đảng cộng sản và nguyện quyết tâm mang lá cờ cộng sản đi khắp nơi.
Chỉ một vài dòng trích đoạn ở trên cho thấy sự thần phục Liên Xô của ông Hồ Chí Minh như thế nào. Cũng theo Hồng Hà, ông Nguyễn đã căn dặn hai đồng chí Tú Hưu và Minh Khai hai điều quan trọng khi về nước:
– Lột mặt nạ bọn Tờ-rốt-kít, tiêu diệt chúng về chính trị và không có thỏa hiệp.
– Lập mặt trận dân tộc và không lúc nào đi ngược lại lợi ích của đảng và giai cấp .
Về việc sát hại đảng cộng sản đệ tứ ở miền Nam, xin được giới thiệu hai tài liệu quan trọng là: Nhìn lại sáu mươi năm tranh đâu cho Việt Nam, Hồ sơ đệ tứ tập, Hoàng Hoa Khôi, xuất; bản tại Paris. Từ trang 221, ông Hoàng Hoa Khôi đã dành nhiều trang để tìm hiểu nguyên do cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu thâu.
Nhưng đầy đủ hơn cả vẫn là tập Hồi ký 1925-1966 của Nguyễn Kỳ Nam, hay ký giả Nam Đình. Tác giả ghi lại: Sau bốn mươi Năm tận tụy với nghề, tôi viết hồi ký này, kể lại những điều mắt thấy tai nghe; những tài liệu lịch sử của một ký giả chuyên nghiệp ghi chép trong sổ tay.
Đọc tập Hồi ký này, người đọc sẽ hiểu được cuộc tranh chấp giữa hai đảng cộng sản anh em mặc dầu cùng một chủ trương: đó là chống thực dân Pháp. Cộng sản đệ tam đã thẳng tay ám sát thủ tiêu các người cộng sản đệ tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Quang An, Phan Văn Chánh, Dương Văn Giáo, Trần Văn Thạch và nhiều đồng chí khác của đệ tứ rồi giết luôn người của các đảng phái quốc gia. Huỳnh Văn Phương, Hồ Vĩnh Ký, Huỳnh Phú Sổ chịu chung số phận như Tạ Thu Thâu.
Chưa kể đến Bùi Quang Chiêu bị sát hại cùng với bốn người con trai. Hồ Văn Ngà cũng chung số phận? Con số nạn nhân là bao nhiêu ?
Người ta phỏng đoán đến hơn 2000 người.
Ở ngoài Bắc, có vụ Ô Cầu Giấy như Phi Vân Nguyễn Văn Căn. Có một số người chạy thoát sau này như Lâm Đức Thụ, Nguyễn Công Truyền, Hồ Tùng Mậu cũng bị chết thảm.
Tất cả những người từng là đồng chí, nhưng có thể khác chính kiến và đã trở thành mục tiêu đầu tiên bị giết của cộng sản đệ tam.
Số phận họ đã như thế thì số phận người của các đảng phái khác còn tệ hại đến đâu?
Chẳng lẽ tất cả những cái chết ở trên ông Hồ Chí Minh đều không biết và hai bàn tay của ông không vấy máu?
Chẳng lẽ ông vô tội?
Lần lượt đến những người như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải bị giết hại!
Chú thich: Riêng trường hợp sát hại Phạm Quỳnh còn nhiều điều nghi vấn. Những người trong cuộc đều xác nhận không rõ nguyên do. Đó là trường hợp các ông Phan Hàm, sau này là thiếu tướng- người được chỉ định áp giải Phạm Quỳnh từ biệt thự Hoa Đường đến Hiền Sĩ, cách Huế 20 km, sau đó giao Phạm Quỳnh cho dân quân tự vệ địa phương rồi Phan Hàm trở về Huế ngay. Rồi trường hợp Tố Hữu, chủ tịch Ủy ban kháng chiến Huế, trường hợp ông Nguyễn Văn Tấn, nguyên thứ trưởng Bộ lương thực, lúc đó được bổ làm Giám đốc tài chánh Trung Bộ, nhà thơ Huy Cận, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Canh nông của chính phủ cách mạng lâm thời vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại. đều Tất cả những người kể trên đều không biết gì về việc ” xử tử hình Phạm Quỳnh”. Hồ Chí Minh cũng không ra lệnh. Vậy mà việc sát hại vẫn xảy ra ..
Người ra lệnh cho việc thủ tiêu ám sát ở trong Nam là cánhTrần Văn Giàu và người thi hành lệnh ám sát là Nguyễ Văn Trấn. Nguyễn Văn Trấn cũng chính là tác giả cuốn sách: Viết cho mẹ và Quốc Hội. Cuốn sách của ông cũng không đả động gì đến những vụ thủ tiêu, ám sát ở trên. Mới đây Hồi ký của Trần Văn Giàu cũng dấu biệt.
Tuy nhiên, cuốn sách của Nguyễn Văn Trấn đã gây chấn động ở trong nước, bị cấm lưu hành và bị tịch thu. Sau đó cuốn sách được in ở Hải ngoại.
Cuốn sách gây một tiếng vang vượt qua những nhà bất đồng chính kiến khác như Nguyễn Hộ, Thích Quảng Độ, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Kiến Giang, Phan Đình Diệu.
Công việc thủ tiêu nhóm đệ tứ ở trong Nam xảy ra y hệt những gì xảy ra ở Liên Xô giữa phe Staline và phe Trôt-kit.
Một cách không chính thức mở ra hai lối nhìn, hai quan điểm về Hồ Chí Minh như thể Chính và Tà. Một bên tuyên truyền bằng xảo trá. Một bên giải độc bằng Sự Thật.
Nhưng quan trọng hơn nữa còn có các nhà trí thức phương Tây hầu như đều cùng đồng loạt không ngại ngùng gọi ông là nhà giải phóng, một chính trị gia đại tài nhà ái quốc, nhà cách mạng vô sảnvv.. Đây là một sự đầu độc mềm, thấm vào tim vào óc những người cách này cách khác tôn vinh ông Hồ.
Tôi có cảm tưởng một số tác giả ngoại quốc trở thành một thứ ” phên dậu” cho chế động cộng sản Hồ Chí Minh.
Có ngon thì viết hẳn một bài để cho thiên hạ thưởng lãm cái tài của anh hơn là nhảy vào châm chích đủ kiểu, hệt như cho núp lùm xông ra cắn trộm. Chán và nản
Chẳng ai ca tụng họ Võ, chỉ có đảng cộng sản dùng Võ, nâng Võ lên hàng đại tướng để cầm quân mà nói đúng hơn là nướng quân đánh thực dân Pháp và đánh đế quốc Mỹ, nhưng mục đích sau cùng thực sự là đánh giết người VN để cướp nước. Xong việc, đại tướng bị giặc cộng cho về cầm quần phụ nữ. Nếu Võ giỏi thì Võ đã không bị giặc cộng khinh như vậy. Lúc còn sống đã bị giặc cộng khinh, cho tới lúc chết, và chết rồi cho tới nay khi nhắc tới họ Võ ai cũng khinh cái tài nướng quân bộ đội của Võ Nguyên Giáp.
Tổ tiên chúng ta, thời phong kiến, đánh quân Tàu ngoại xâm là đánh bằng vũ khí chính mình làm ra và bằng ý chí sức mạnh của dân tộc, nhưng giặc cộng đánh dựa vào vũ khí và sức mạnh của ngoại bang, đuổi quân xâm lăng Pháp ra để rước vào nhà một lũ giặc Tàu xâm lược khác nguy hại hơn cho dân tộc hàng vạn lần mà nay vẫn còn. Như vậy giặc cộng chính là giặc cướp nước và bán nước để rước giặc Tàu cộng vào cai trị đất nước VN.
Sau trận Điện Biên Phủ với sự viện trợ vũ khí và kinh tế của giặc Tàu Cộng, một nửa nước Miền bắc bị giặc cộng chiếm, và một nửa nữa bị chiếm năm 1975. Nhưng độc lập không thấy đâu, chủ quyền cũng không có mà chỉ thấy dân tộc VN phải làm lao nô khắp thế giới và đất nước trong tay bọn giặc cộng. Giặc cộng và giặc Tàu tuy hai nhưng là một. Họ là GIẶC cướp đất nước VN!
Nhiều người mến mộ họ Võ in the closet hơn, có nhiều cái lợi . Ca tụng họ Võ sẽ làm mọi người quên đi công lao của Trung Quốc bị họ Võ cướp công . Tưởng Năng Tiến học Huy Đức chiện này nên rất dũng cảm khi hổng (thèm) đưa ra 1 sự … quasi-truth là Đại Tướng họ Võ CHÍNH LÀ người chiếm nhà ô/b Trịnh Văn Bô . Họ, nhứt là Tiến Sĩ Tưởng Năng Tiến, rất can đảm nên lên tiếng phiền toái này nọ với Đảng, nhưng bố bảo cũng không (mún) nhắc tới Đại Tướng họ Võ
“Giặc cộng và giặc Tàu tuy hai nhưng là một. Họ là GIẶC cướp đất nước VN!”
Bùi Văn Phú biểu đó là thống nhứt hòa bình . Hey, yo Phúc Kđinh nhân sĩ-trí thức, them aint mine
Trích lại vài đoạn của ông Bùi Tín nói về VNG.
Cựu Đại tá Bùi Tín: “Tướng Võ Nguyên Giáp, như tôi từng biết”
09 Tháng Mười, 2013
“… Đây là điểm tiêu cực nhất của tướng Giáp, là tỳ vết sâu đậm nhất của một danh tướng, từng được coi là Người Anh Cả của Quân đội Nhân dân. Ông mang danh là một viên tướng «Sát Quân», sát quân một cách lạnh lùng.
Tôi đã gửi 2 lá thư cho ông (năm 1992 và 1996), nhắc ông rằng quân hàm đại tướng 4 sao của ông được mạ bằng xương máu của hàng vạn vạn chiến binh, rằng «nhất tướng công thành vạn cốt khô», mong ông hãy tham gia, ủng hộ phong trào đổi mới theo hướng dân chủ hóa thật sự đất nước; rằng ông chỉ cần ghé thăm anh Hoàng Minh Chính đang bị chính quyền đối xử rất tồi tệ, hoặc nhắn anh Đại tá Phạm Quế Dương mới ra khỏi nhà giam đến hỏi chuyện, cả 2 đều là sỹ quan từng dưới quyền trực tiếp của ông, ông vẫn làm ngơ, không động lòng. Đây là điểm yếu về ý chí, công tâm, nhân cách.
Nhiều người nhắc đến lá thư tháng 1-2004 của tướng Giáp gửi lãnh đạo đảng CS yêu cầu giải quyết «vụ án siêu nghiêm trọng» liên quan đến Tổng cục II, làm rõ vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4, và sau này là 3 lá thư của ông hồi 2008-2009 về yêu cầu đình chỉ việc khai thác bauxite trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Đây là những việc làm có ý nghĩa tích cực, nhưng lá thư thứ nhất quá chậm trễ, vì các vụ Năm Châu, Sáu Sứ và vụ T4 đều xảy ra từ hồi 1991 – 1993 cũng như vụ dựng lên Tổng cục II từ Cục 2 Quân báo đến lúc đó cũng đã được mười năm.
Ông Giáp phải chờ đến năm 2004 – năm kỷ niệm nửa thế kỷ Chiến thắng Điện Biên Phủ – mới lên tiếng. Mà nội dung lên tiếng xem kỹ ra là nặng về thanh minh cho riêng cá nhân mình, như ông bị Năm Châu, Sáu Sứ dựng lên tài liệu để vu cáo là ông có âm mưu đảo chính, hay vụ T4 là do Tổng cục II bịa ra tài liệu vu cáo ông và nhiều nhân vật khác có quan hệ với CIA của Hoa kỳ. Nói tóm lại ông chỉ trước hết nhằm bảo vệ thanh danh của cá nhân mình, cố chăm nom cho cái bộ mã của người hùng Điện Biên không bị hoen ố, cho đến khi hơn trăm tuổi.
Thái độ của ông đối với vụ khai thác bauxite cũng có phần yếu ớt, buông xuôi, so với những lá thư mạnh mẽ, lặp đi lặp lại của các tướng Đồng Sỹ Nguyên, Nguyễn Trọng Vĩnh và một số sỹ quan cấp cao khác.
Dũng khí là đức tính hàng đầu của một danh tướng, nên vào năm 1984, khi ông Lê Duẩn đến nói chuyện rất hẹp với cán bộ lãnh đạo báo Nhân Dân, ông kể rằng hồi 1968, bộ trưởng quốc phòng «nhát như thỏ đế», tránh mặt ra nước ngoài. Sự thật kế hoạch quân sự Mậu Thân 1968 là do các ông Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đề xuất, khởi thảo và chỉ đạo thực hiện. Khi chiến sự bùng nổ Tết Mậu Thân, ông Giáp đang dưỡng bệnh 2 tháng ở Hungary sau khi mổ cắt túi mật ở đó. Thật ra ông không tán thành tham vọng tổng tiến công và nổi dậy, ông chỉ có ý thực hiện tập kích chiến lược, đánh rồi rút bảo toàn lực lượng, đánh lâu dài. Ý ông đúng, nhưng không cản nổi….”
Thế hệ bịnh hoạn phải “Tuyệt chủng”!
Độc tố ăn sâu tận xương tủy
Bao nhiêu thế hệ hàng thế kỷ
Sau cuộc chiến huynh đệ tương tàn
Con cháu ta làm sao rội rửa?
Thế hệ bịnh hoạn phải “Tuyệt Chủng”
Bên thắng cuộc cuồng Hồ cuồng đảng
Bên thua cuộc bưng bô cuồng Trump
Cả hai đều khuyệt tật mê sảng!
Nông Dân Nam Bộ
Con cháu ta làm sao gội rửa?
Tư tưởng của người cộng sản không bao giờ hòa hợp được với tư tưởng của người quốc gia. Hay nói một cách khác theo toán học thì cộng sản và quốc gia không có mẫu số chung.
Điều này cho thấy KHÔNG bao giờ có hòa hợp và hòa giải Quốc với Cộng như người cộng sản tuyên truyền và ngụy biện.
Triều Tiên, cũng như VN, cùng một dân tộc, một ngôn ngữ, một dòng máu, nhưng phải chia cắt về mặt địa lý để mỗi bên sống theo lý tưởng của riêng mình. Họ không thể hòa hợp và hòa giải. Chỉ trừ khi chế độ cộng sản sụp đổ, nhưng nếu còn tồn tại thì họ luôn muốn chiếm lãnh thổ của bên quốc gia.
Người quốc gia chỉ muốn sống hòa bình. Họ không xâm lăng, họ chỉ tự vệ, bảo vệ lãnh thổ của bên mình khi bị cộng sản xâm lăng. Hay nói chính xác hơn, từ xưa tới nay người quốc gia không chống cộng mà chỉ có người cộng sản chống quốc gia.
Cho nên nói người quốc gia chống cộng sản là sai mà phải nói là người cộng sản chống người quốc gia và muốn tiêu diệt người quốc gia.
Cộng sản năm 1954 chiếm Miền Bắc VN, 1975 họ chiếm VNCH. Nhưng sau 49 năm cai trị cả đất nước người cộng sản vẫn chống dân và chống người quốc gia nhưng họ luôn tuyên truyền là người quốc gia chống cộng. Người cộng sản ngụy biện để lấy cớ tiệt diệt người quốc gia như Hồ Chí Minh và đảng cộng sản của họ đã tiêu diệt hàng trăm và hàng vạn người có tư tưởng quốc gia trong hơn 80 năm qua.
Ngày nay, cộng sản vẫn tiếp tục chống lại cả trăm triệu người dân trong nước. Họ tước quyền làm chủ đất nước của người dân. Họ chống cả dân tộc VN, và họ còn thò bàn tay cộng sản ra tận hải ngoại chống người Việt tỵ nạn cộng sản.
Người Việt quốc gia không chống cộng mà chỉ đòi lại những gì người cộng sản đã cướp và tước đoạt của họ, bao gồm quyền làm người, quyền làm chủ đất nước, quyền được bầu cử và ứng cử tự do, và quyền được tự do ngôn luận.
Hổng chống Cộng, rất hay . Ngược lại, nên tạo lòng tin cho Việt Cộng tin vào chủ thuyết Cộng Sản của mềnh . Sau đó, mình cứ từ từ tà tà hổng chống mà vưỡn đòi mấy thứ trời ơi đất hỡi đó
Anymo where that xít come from? Guess plenty huh
Năm 1788 quân Thanh Tôn Sĩ Nghị, mượn tiếng giúp Đại Việt theo yêu cầu của thân mẫu Lê Chiêu Thống, đưa quân tiến vào Thăng Long. Năm 1789 Bắc bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế đưa quân Bắc tiến đánh trận Đống Đa đuổi quân Thanh ra khỏi Thăng Long, khiến giặc Tàu phải chạy về Bắc, ra khổ bờ cõi Việt Nam.
165 năm sau trận Đống Đa của Hoàng Đế Quang Trung có việt cộng tràn ích tắc 1950, aka “hồ chí minh”, việt cộng Võ Nguyên Giáp, phục vụ chiến tranh uỷ nhiệm, phục vụ thực dân đỏ xích hoá Việt Nam, phục vụ Mao Trạch Đông đánh nước Việt bằng xương máu Việt, đánh phá nền Độc Lập Thống Nhất của Việt Nam (Qg Việt Nam mới lấy lại Nam kỳ từ tay Pháp, thống nhất đất nước từ 4-6-1949), tiếp tay Trung cộng đánh trận “điện biên phủ” mở đường cho giặc Tàu nhà Mao thay chân giặc Tàu nhà Thanh tiến vào miền Bắc Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) chiếm đoạt “giao chỉ”, chia cắt lãnh thổ Việt Nam, cắm cờ búa liềm lên Hà nội, đưa bắc kỳ nhập trung từ 1955.
Để gọi cho đúng sự việc, phải gọi trận đánh chấm dứt ngày 7-5-1954 phục vụ giặc Tàu nhà Mao thay chân giặc Tàu nhà Thanh tiến vào Bắc kỳ, là “trận đống đa ngược”
Xin thua quy’ Ong , quy’ Bà, Viet nam là 1 nuoc’ nhuoc tieu², o² ben canh thàng Tau, to lon’, ddong dan, luon luon muon’ “dop'” Viet nam. Vi’ nhu Viet nam ko ddu² manh, ko co’ kha² nang giành doc lap mà phai² le thuoc vào ngoai bang thi chi² co’ 1 con duong Viet nam can phai² lua chon giua² Thuc dan , De’ quoc’ Tay phuong Tu do hoac cong san Nga /Tau.
cac’ Ong Bà chon ai???? TUY’ MOI² NGUOI.
Hay² nhin nuoc’ Ukraine hien tai. , Ho muon chon doc lap lam’ , nhung co’ duoc ko ?? Dan Ukraine bay gio chi² muon chon 1 là chon le thuoc vào My+ Chau au , 2 là chon Nga/Putin. Ko co’ cai’ chon thu’ 3
Viet nam cung² vay, chon doc lap c’est une UTOPIE, IL NE FAUT PAS REVER quy’ Ong /Bà.
Thương Ukraine quá sao không tình nguyện qua đó đánh với lính Nga?
Dm, Mỹ+ Joe Biden, Việt+ Tô Lâm đè đầu cởi cổ không lo bày đặt xạo xạo.
Xin làm ơn viết bằng tiếng Pháp, hay Anh, hay Tàu; nhưng đừng viết tiếng Việt (?) kiểu lạ này nhức mắt, rảnh đâu để đọc. Còn không làm được thì nên biến mất. Tiếng Việt học không xong thì láu táu cái gì!
Hổng sao đâu . Đọc nè
“Bees 15/12/2024 at 07:20
Người Việt quốc gia không chống cộng”
có nghĩa Đảng cũng hổng nên chống Cộng . Níu phải bỏ 1 thứ, Cộng Sản & chống Cộng, Đảng nên bỏ chống Cộng, là thứ hiện giờ Đảng đang làm rất tốt, theo lời Nguyễn Hữu Liêm . Bảo đảm hổng ít dân cả trong lẫn ngoài nước ủng hộ . Miễn là xây nhiều thứ đèm đẹp cho Việt kiều trố mắt “Việt Nam bi giờ cũng đã quá!” thế là được gòi . Việt Nam hổng nên chọn phe (nữa), chỉ cần là chính mình Be You, bên Mỹ đang thịnh hành trend này . Be the best Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Việt Nam can be, bảo đảm sẽ được dân cả trong lẫn ngoài nước ủng hộ . Thấy hông, khi Đảng đổi đúng, dân cả trong lẫn ngoài nước đều chống mắt lên xem Đảng có đi vào thực chất lời nói của mình hông . Đừng làm họ thất vọng, đừng chọn phe (nữa), thế là đủ
Ngay 20 thang 1 nam 2025, Schum ,len ngoi ” Ngoc Hoàng” . Neu’ Schum tuyen bo’ coupe vien tro cho Ukraine. Tin chac’ ràng Ukraine se² thua Nga. Nhu vay ko the² noi’ ràng Ukraine chien’ bai thua tran, Nga thang’ tran.
Cầu Viện
Như Trần Ích Tắc – Lê Chiêu Thống
Cầu viện ngoại bang như Nguyễn Ánh
Mang thân phận nô lệ chư hầu
Hết Tàu tới Tây giờ Đại Hán!
Tre già măng mọc các bạn à
Tương lai tuổi trẻ cứu nước ta
Thế hệ già bịnh hoạn khuyết tật
Hãy chết hết đi mới may ra!
Nông Dân Nam Bộ
Phải nói tụi Việt+ chơi nhau tàn canh thiệt. Hạ nhục nhau bằng mọi cách. Giáp từ ‘anh hùng Điện Biên, Tổng Tư lệnh Quân đội’ bị điều về cầm đầu chương trình kế hoạch hóa gia đình. Đồng chí đồng rận với nhau. Dân gian nhỏ to:
“Khi xưa Đại Tướng cầm quân
Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!”
hoặc
“Khi xưa Đại Tướng công đồn
Ngày nay Đại Tướng ngăn l.., cản c.!”
Hãy trở về cội nguồn dân tộc!
Nền tảng gia đình của Ông Cha
Bốn ngàn năm văn hóa nước ta
Đậm đà bản sắc một dân tộc
Bàn thờ Ông Bà trong mỗi nhà
Trở về với cội nguồn dân tộc
Hội Nghị Diên Hồng sao không học?
Đức Thánh Trần đánh đuổi quân Nguyên
Vọng ngoại bị ngoại bang sang độc!
Dựng nước giữ nước bốn ngàn năm
Bốn ngàn năm mồ hôi xương máu
Ông Cha ta đã chống ngoại xâm
Bốn ngàn năm không bị đồng hóa
Mang tư duy bụt nhà không thiêng?
Hãy trở về cội nguồn dân tộc!
Nông Dân Nam Bộ
……..Có 1 anh bạn trẻ, Nguyên, thời sự biển đông, hiểu lầm về 1975, cho là VNCH đã thua, mặc dù thực tế là bị Mỹ và đồng minh bán đứng ép cho bức tử_____buộc lòng; tui phải lên tiếng bài viết này để những người VN trẻ tuổi hiểu biết tốt để đóng góp nhiệt tình cho quê hương. Thật vậy, chiến tranh thế giới thứ 2, thực dân Pháp lúc bấy giờ là đồng lõa với Đức quốc Xả Hitler để tránh chiến tranh, theo kiểu mày đánh ai thì đánh đừng đánh tao, Nguyên là công dân Pháp đương nhiên hiểu rỏ đều này_______ bởi vậy hiện tại chiến tranh Ukraine, 1 vị tướng nước Pháp đã góp ý là: không nên như thế chiến thứ 2 đồng lõa chụi nhục để rồi cũng phải chiến tranh, đúng!, chính vì vậy mà Pháp không thông đồng với Nga, và ủng hộ Ukraine_____ quay về chiến tranh điện biên phủ, tuy là Pháp thắng cùng đồng minh, tuy nhiên nếu không nhờ Mỹ, thì Pháp không thể đánh bại Hitler, cho nên khi Mỹ Nga phân chia thế giới thì chỉ có Anh, Mỹ Và Nga, Pháp không được mời, và để trả ơn thuộc địa Pháp bị Anh Mỹ Nga xẻ thịt, trong đó có Đông dương…______nhưng thực dân Pháp không chụi nhường đông dương, nên buộc lòng Mỹ Nga phải mưu kế bắt tay đánh bại thưc dân pháp ổ Điện biên phủ, vậy là xóa sổ thực dân Pháp, đông dương thuộc Mỹ và miền bắc VN thuộc NGA. Để ném đá dấu tay, Mỹ Nga, đưa 2 thằng cu già hồ và cu giáp ra mặt nhận chiến thằng, chứ sự thật 2 thằng con kẹt, già hồ và cu giáp biết gì thằng với thua. Tụi Việt cộng hùa theo như chó là ta thắng ta thắng, chứ sự thật là Mỹ Nga chia nhau đông dương. Tưởng cũng nên nhắc lại là dân Pháp thời đó đế ai ưa tụi thực dân Pháp ,cũng như bây giờ đế…ai ưa tổng thống Pháp Macron vì tay chân của tụi thực dân Pháp kiểu mới hiện đang bày mưu tính kế đưa dân Pháp vô thòng lọng là thâm thủng ngân sách, để ép dân Pháp phải chụi những luật lệ hà khắc kiểu thực dân kiểu mới mà 1 trong những người cầm đầu là Vua thời trang Pháp, giàu nhất hành tinh, là tỉ phú Bernard Arnauld………Nhiều người Pháp cho là thâm thủng ngân sách 60 tỉ không bằng số tiền lẻ của tỉ phú Bernard Arnauld, tuy nhiên tụi thực dân Pháp kiểu mới đã gài độ hàng nhiều năm dể dầu gì họ buông ta dân Pháp. Tụi Macron có dụ khị ông Trump ,nhưng ông Trump đế….nghe, và phản pháo là tụi môi trương Paris là đồ mất dạy và lường gạt cả thế giới……..hên nhờ có ông Trump vạch mặt không thì tụi thực dân Pháp kiểu mới làm mưa làm gió, cũng như hiện tại đang chèn ép dân Pháp, tụi này ai ai cũng ghét, ông Trump cũng ghét. Tóm lại Điện biên phủ là Mỹ Nga chia nhau ăn, 2 thằng con kẹt nhà quê già hồ và giáp chỉ được đua ra để làm trò hề……..Và tui xin nhấn mạnh để Nguyên thời sự biển đông hiểu hiệp định Paris 1971 là bằng chứng VNCH đã bị bán đứng…….Nguyên nên tìm hiểu thêm…nay kính.
Hiệp định Paris 1972 ( tui viết lộn là 1971)……..là bằng chứng VNCH bị đồng minh tây phương bán đứng để họ lấy thị trường NGa và tàu mọi……Iphone có vốn lên tới hơn 3000 tỉ đô và vua thời trang Pháp giàu nhất thế giới cũng nhờ những thị trường này, và họ lưu manh chó bán đứng VNCH……..và người chủ trương ra mặt là Henry Kissinger bộ trưởng ngoại giao Mỹ lúc bấy giời là người Mỹ gốc Do thái, thằng Henry Kissinger là con chó……dù vậy trước khi chết Henry Kissinger có ý nói tao cũng chỉ là tay chân tụi nhà nước ngầm, mà báo chí nói chử là giới tinh hoa….nay kính.
“Tôi có cảm tưởng một số tác giả ngoại quốc trở thành một thứ ” phên dậu” cho chế động cộng sản Hồ Chí Minh”
No Star Where. Các trí thức hải ngoại, Ngu Thế Vinh … đang tiến bước theo con đường của “1 số tác giả ngoại quốc” đó
Câu nói của tên tổng bí thư Lê Duẩn đã đi vào lịch sử chiến tranh VN thời cận đại là “Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô và cho trung Quốc”. Câu nói này là đúng nhưng phản ảnh quân đội cộng sản Bắc Việt là tay sai của Tàu Cộng và cộng sản Liên Xô.
Trận chiến Điện Biên Phủ, và sau này là cuộc chiến tranh Nam – Bắc VN mà cộng sản Bắc Việt chiến thắng là nhờ viện trợ vũ khí dồi dào và nhờ có chỗ dựa ở khối cộng sản quốc tế. Nếu không có hai điểm cơ bản này thì cộng sản Bắc Việt sẽ không bao giờ chiến thắng dù có đốt hết dãy Trường Sơn hy sinh đến người cộng sản cuối cùng. Bằng chứng là cộng sản Bắc Việt đánh VNCH suốt 20 năm dài mà không thắng, chỉ tới khi người Mỹ quyết định bỏ VNCH để cho cộng sản chiếm.