Tưởng nhớ Tô Thùy Yên

8
Nhà thơ Tô Thùy Yên

TÔ THUỲ YÊN. KINH KHỔ

Tô Thuỳ Yên ra đi ngày 21/5/2019.

Những lúc lạc lõng, không biết mình đang ở đâu, đi đâu, nhiều người quay về với thơ phú, với thi sĩ. Nhất là một thi sĩ, ngoài cái ngổn ngang tâm sự riệng, còn chia cái đau chung của đồng bào. Một thi sĩ chứng nhân của một cơn ác mộng, một thời đại khủng khiếp, một thi sĩ mang cái đau của mình để nói lên cái đau chung của  cả một dân tộc. Dùng ngôn ngữ rất riêng tư, cái nhìn rất riêng tư, để nói thay những người đau, nhưng không biết diễn tả cái đau của mình

Có người nói sách để đọc một vài lần, thơ để đọc cả đời, càng đọc càng thấm, mỗi lần đọc tìm thấy một cảm giác lạ, một xúc động mới. Nhất là khi thơ đã đạt, như thơ Tô Thuỳ Yên (TTY)

Thơ TTY không phải để ‘’ru với gió, mơ theo trăng và thơ thẩn cùng mây’’ như Xuân Diệu.

Thơ TTY là chứng nhân của một cuộc bể dâu, là một lời xưng tội, một tụng niệm giải oan cho những trầm luân của một kiếp đoạ đầy. Một kinh khổ.

Đúng là kinh khổ, bởi vì thơ TTY rất gần với tư tưởng nhà Phật, thấy đời là bể khổ, nhưng rất zen, rất thiền, không một chút oán thù

Đọc ‘’Ta Về’’, bài thơ dài TTY viết về ngày ra khỏi trại cải tạo, (chút rượu hồng đây xin rót xuống/Giải oan cho cuộc bể dâu này), tưởng như nghe Văn tế Thập Loại Chúng Sinh của Nguyễn Du:

Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người

Hương lửa đã không nơi nương tựa

Hồn mồ côi lần lữa bấy niên (Nguyễn Du)

Nếu tình yêu dễ diễn tả qua thơ hơn là văn vần, hơn là diễn văn, cái đau thương uất nghẹn cũng vậy. Phải bao nhiêu trang mới nói đuợc tất cả cái đau đớn trong 2 câu thơ Tô Thuỳ Yên, diễn tả cuộc chạy giặc:

Xứ khổ, gây chi mùa thảm khốc

Hỡi ơi trời đã bỏ rơi dân

Hay tia hy vọng le lói trong bể khổ:

Xin cám ơn hoa đã vì ta nở

Thế giới vui vì những chuyện lẻ loi.

Đọc TTY, nhiều khi nghĩ tới thơ Quang Dũng, cái hình ảnh ghê rợn về chiến tranh trong thơ Quang Dũng:

Mẹ già tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ

Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông

(Mắt Người Sơn Tây. QD)

Quang Dũng mơ ước: bao giờ tôi gặp em lần nữa/Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca/Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ/Em có bao giờ em nhớ ta ?, TTY thề nguyền, cam kết: Ta về dẫu phải đi chân đất/Khắp thế gian này để gặp em.

Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một chiếu như Tô Thuỳ Yên còn hiếm hơn nữa.

Thanh Tâm Tuyền nói TTY là một nhà thơ miền Nam. Vừa đúng vừa sai.

Đúng, bởi vì thơ TTY không hề có căm thù, kêu gào chém giết như thơ miền Bắc ‘’xã hội chủ nghĩa’’. Đúng là tâm hồn của một miền Nam hiền hoà, độ lượng, của một xã hội nhân bản, trong đó tình người là cái đáng quý trọng nhất.

TTY là sĩ quan tâm lý chiến của VNCH, nhưng không hề nhìn người khác là ta, là địch, chỉ thấy một dân tộc đoạ đầy

Mối sầu như nước sông

Chẩy hoài mà không cạn….

Giữ làm gì đau thương

Đã đôi lần nhầm lẫn

( Đêm qua bắc Vàm cống)

Sai, bởi vì mặc dù sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ TTY không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.

Về ngôn ngữ, thơ TTY chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ, táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, một ông đồ già, từng trải, ngồi nhâm nhi bên tách trà , ngẫm nghĩ về nhân tình thế thái, về cuộc đời dâu biển:

Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ

Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

Chỉ có thế. Trời câm đất nín

Đời im lìm đóng váng xanh xao

nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên vào đời, muốn yêu, muốn thương, muốn nhớ. Muốn sống.

Ta về dẫu phải đi chân đất

Khắp thế gian này để gặp em

Những yếu tố chính của thơ là từ ngữ, hình ảnh, âm điệu, và tư tưởng; thơ TTY có đủ:

Bao giờ, cho đến bao giờ nữa. Em gánh vui về họp chợ đông

Trong các yếu tố đó, quan trọng hàng đầu là từ ngữ. Thi sĩ Pháp Mallarmé dứt khoát hơn nữa: Không phải với ý tưởng người ta làm thơ, nhưng với từ ngữ (Ce n’est pas avec des idées qu’on fait des vers; c’est avec des mots).

TTY cũng nghĩ như vậy, và cực kỳ trân trọng với từ ngữ. Ông nói, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Nguyễn An Dân:Tôi rất dễ bị ray rứt, dằn vặt, chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc.

Và giải thích:

Thơ biến cái thật thành cái không thật. Bất cứ nhà thơ nào cũng sử dụng và đồng thời chối nhận ngôn ngữ. Sự mới mẻ độc đáo trong thơ, trái với các bộ môn khác trong văn chương không nằm trong đề tài ( đề tài trong thơ thường khi rất thông thường và được coi như hằng cửu.Thi sĩ nhìn thấy cái đep ở những cái tầm thường.

Từ ngữ TTY đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ dãi. Vừa lạ, vừa thực. Vừa xa vừa gần gũi. Chuyện đó không phải dễ. Có người dùng chữ lạ, câu lạ, nhưng không thực, chỉ lộ cái lập dị, giả tạo. Có người rất thực, nhưng nhàm, nếu không thô tục, bởi vì cái thực trong nghệ thuật, nó khác với sự thực ngoài đời.

Về tư tưởng, thơ TTY đau xót, bi quan nhưng bao dung; đứng ngoài, đứng trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, cái giới hạn của kiếp người.

Muốn nói được phần nào cái đau thương, uất hận, cái mệt mỏi, cái  chịu đựng vô hạn, cái sức sống lạ kỳ trong đại hoạ của dân tộc Việt, phải có những nhà văn dài hơi, với tầm vóc Tolstoi, Pasternak mà chúng ta chưa có. Hay một thi sĩ như tác giả Ta về.

Ta về như bóng ma hờn tủi

Lục lại thời gian kiếm chính mình

Ta nhặt mà thương từng phế liệu

Như từng hài cốt sắp vô danh

Nằm tù cải tạo ra, gia đình chia ly, cuộc đời tan nát, nhà cửa quê hương tang thương, nhưng cái ghê rợn nhất đối với thi sĩ là một xã hội không còn nhân phẩm, đánh mất lương tri. Ông nói:

‘’chiến tranh, nhất là chiến tranh uỷ nhiệm huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây thương tổn năng nề cho nhân phẩm ‘’

Đôi khi tôi hoài nghi khả năng của văn chương Việt Nam trong việc diễn tả cái kinh hoàng cùng tận của một cuộc đổi đời, nhưng hoàn toàn tin là thơ VN có đủ khả năng đó. TTY là một bằng chứng.

Nhiều nhà nghiên cứu nhận xét: văn chương chỉ có ở một vài nước, nhưng thơ thì cùng khắp. Jorge Luis Borgnes không nói gì khác: Trong mọi trường hợp, thơ đến trước văn vần, hình như người ta hát (hay khóc) trước khi biết nói ( Dans tous les cas, la poésie est antérieure à la pose, on dirait que l’homme chante avant de parler)

Tháng 5/1019, TTY ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một dân tộc. ‘‘ Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/ Đành không trải hết được lời ta ”

Sáng dậy, nghe tin TTY ”đi xa ”, cứ muốn tin là một fake news, một chuyện không có thực..

Đi xa như lạc trong trời đất

Thủy tận, sơn cùng xí xoá ta

Cõi chiều đứng lại, khóc như liễu

Có thật là ta đã đi xa ? (Đi xa)

Sơn cùng, thủy tận xí xóa người, nhưng sẽ bó tay,  làm sao xóa được Ta Về, Chiều trên Phá Tam Giang. Làm sao xoá được Tô Thuỳ Yên ?

Edgar Allen Poe nói : nếu thơ chưa xé nát tâm hồn của bạn, bạn chưa biết thơ là gì ‘’ (If a poem hasn’t ripped apart your saoul, you haven’t experienced poetry.). Nhờ TTY, nhiều người đã biết thơ là gì.

Paris, Tháng Năm 2023

Từ Thức

( tuthuc-paris-blog.com )

8 BÌNH LUẬN

  1. “… sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ TTY không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.” (TT)

    Bắc Nam Trung gì cũng vậy. Mỗi nơi có một số phương ngữ của nơi đó. Giọng điệu của địa phương và những ngữ pháp cú pháp cách nói cách đặt đặc thù riêng. Không hẳn người Bắc viết cầu kỳ và người Huế “đài các”. Còn miệt vườn thì miền nào cũng có nhà quê ruộng vườn. Trong Nam dĩ nhiên ruộng vườn rộng nhiều hơn.

    Người Bắc nhiều thi sĩ làm thơ rất bình dị chân phương như Nguyễn Bính, Nhất Tuấn. Nhà văn Bắc Kỳ như Duyên Anh, Chu tử, Nguyễn Thụy Long viết văn cũng rất bình dân dễ hiểu, nó do bút pháp – writing styles- tùy người. Còn cái vụ người Huế thì đài các ? Không dám đâu. Thi sởi đồ tể Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc xuân thì “đài các” cái gì! Đài xử trảm thì có. ha ha ha !

  2. “… sinh ra ở miền Nam (Gò Vấp, Tân Định), ngôn ngữ TTY không phải là ngôn ngữ dễ dãi và dễ thương của miệt vườn, nhưng là ngôn ngữ rất cầu kỳ của một nhà thơ miền Bắc, đài các của một nhà thơ Huế.”(TT)

    TTY là nhà thơ miền Nam. Đơn giản bởi vì cha mẹ người Nam, ông sinh ra đi học đi lính đều ở trong Nam. Thơ của ông cũng Nam rặc. Dĩ nhiên không phải loại tiếng Nam qua nói bậu nghe theo qua dìa nhà ăn bún mắm.

    Một mai nàng lên núi Chan Chứa
    Hỏi tìm cho gặp đá Tiên Tri
    Về sau đời có ra sao nữa
    Cũng đã đành tâm sẵn một bề

    Ðá, chẳng đá nào lên tiếng với
    Nàng đi thôi đã nát chân hồng
    Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
    Một lần bỏ lỡ chuyến lìa non

    Một mai nàng vô rừng u ẩn
    Nhặt trái nưa về nhuộm dạ sầu
    Thấy trăm họ cỏ cây chen quấn
    Nương náu nhau mà tội nợ nhau

    Con loan con phượng bay đâu lạc
    Ðến nỗi nào sao chẳng gọi bầy
    Nếu như hoa biết chiều nay rụng
    Âu cũng vui mà nở sáng nay

    Đọc lên là nghe ra cái giọng, tone, miền Nam rất rõ. Ngữ pháp, syntax, cũng theo cách của người miền Nam. Một mai, một bề, trái nưa, tội nợ, đến nỗi nào, âu cũng vui. Chỉ người trong Nam mới mặc vải hàng lãnh Mỹ A đen bóng do nhuộm bằng trái mặc nưa hái trong rừng.

    Ngoài ra, cái quan niệm rằng hễ người Nam thì dễ dãi xuề xòa hơn người Bắc khi viết văn. Quan niệm này trật lất. Những nhà văn nhà thơ người Nam cũng không ít người viết văn rất sàng lọc cầu kỳ. Thí dụ Sơn Nam, Vương Hồng Sễn, nhà thơ Đông Hồ, Nữ thi sĩ Mộng Tuyết v.v.

    • Hi bác Thiến Heo, bình (bồng) thêm với bác một tẹo về chữ/nghĩa của miền Nam (chỉ với 4 câu trong bài thơ bác trích dẫn) thui hihi chứ “bình” hết chắc “bịnh” và chắc cú là “xỉu” mà không được tẹo “tài” nào!

      “Ðá, chẳng đá nào lên tiếng với
      Nàng đi thôi đã nát chân hồng
      Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
      Một lần bỏ lỡ chuyến lìa non”

      Đá vô tri. Nhưng TTY kêu đá “lên tiếng với”… là tiếng thốt câm lặng trong tâm trạng cùng khốn của nỗi đau. Nàng (tình yêu) đã giẫm phải “đá” đó đến “nát chân hồng”. Thế gian của vượn là rừng nhưng lại “khóc hối” vì mất cơ hội duy nhất để “lìa non”. Là sự nuối tiếc của con “vượn” TTY, con “vượn” người miền Nam bị kẹt giữa “rừng”. Chế độ “người rừng”.

      Ngôn ngữ dễ dãi là của người miền Nam. Ngôn ngữ thơ của TTY cũng vậy. Chỉ khác là TTY tỉa, sửa chữ/nghĩa miền Nam sành điệu như cụ đồ chơi kiểng. “Tỉa, sửa” là cắt bớt cho gọn để thêm trọng lượng cho chủ đích. Còn “cầu kỳ” là thêm vào. “Đài các”, bi chừ gọi là “chảnh” (dấu hỏi hay ngã?) Tui nghĩ khác bác TT ở điểm nầy!

      Chịu khó giữ văn phong như còm nầy (chưa bàn chuyện đúng/sai) tui nghĩ sẽ rất tốt với “không khí của trại còm” chứ nội dung và chữ/nghĩa tùm lum uổng nắm nắm, nghen bác! Vui hen. 🙂

      • Ðá, chẳng đá nào lên tiếng với
        Nàng đi thôi đã nát chân hồng
        Nghe con vượn ẩn thân khóc hối
        Một lần bỏ lỡ chuyến lìa non
        (Thắp tạ, thơ TTY)

        . Đá: là tảng đá Tiên Tri trên núi Chứa Chan. Người ta đồn là tảng đá linh thiêng biết được chuyện sắp tới. Người đi lên núi ghé thắp hương và cầu nguyện điều gì đó.
        . Con vượn ẩn thân: xuất xứ từ tuồng cải lương “Bạch Viên Tôn Các” soạn giả Loan Thảo. Dựa theo câu chuyện trong tập thơ Nôm “Tình Trong Giấc Mộng” của Lê Hữu Khải, chuyện con vượn trắng nghe kinh Phật tu lâu năm thành người và kết hôn với một thư sinh.

        Bài thơ Thắp tạ này TTY đề tặng vợ là Huỳnh Diệu Bích, người đã khăn gói đường xa lặn lội nuôi chồng là TTY bị nhốt trong trại cải tạo tập trung giữa rừng ngoài Bắc. Cũng như nhiều người thời đó đã tìm đường vượt biên.

        Tóm lại, chỉ 4 câu thơ thôi cũng đã cho thấy đọc thơ TTY không phải “dễ dãi” như nhiều người máy móc hay lầm tưởng. Tuy nhiên, dù có biết hay không biết các chi tiết rất rắc rối này thì bài thơ đọc lên người ta vẫn cảm nhận được điều gì đó vừa trử tình vừa huyền bí và rất hay nhờ văn bản tự nó đã mang thi tính, poetic, sâu sắc rất thơ.

        • Bác TH giải thích có vẻ rất hợp lý. Cảm ơn bác. Vì thế tui hỏi sư phụ Gu Gồ để biết thêm về viên đá Tiên Tri. Núi Chứa Chan đang là thắng cảnh du lịch của Đồng Nai. Để hấp dẫn du khách thắng cảnh nào cũng phịa thêm nhiều huyền thoại, vì thế viên đá Tiên Tri phần chắc phải hấp dẫn hơn cả hồ Than Thở, Đồi thông hai mộ… thế nhưng bác Gu lắc đầu, hổng biết! Chỉ biết núi Chứa Chan có 3 ngôi chùa và nhiều cảnh đẹp a, b, c…

          Bác TTY là thi sĩ, có thể chỉ nghe chuyện viên đá Tiên Tri, rồi đem vào nội dung thơ cùng với sự tích con vượn đúng với hoàn cảnh và nỗi lòng của người trong cuộc là chuyện bình thường thôi. Hơn nữa “cải lương chi bảo” là của người miền Nam nên ngổn ngang tâm sự!

          Phải chăng tui bị ám ảnh Ta Về “cảm ơn hoa đã vì ta nở”, bị dằn vặt phận người của miền Nam, mất đi cái hồn nhiên bẩm sinh (vượn phải ở rừng) đến độ nuối tiếc cơ hội để “lìa non”? Cũng là chút tâm sự với bác. Cảm ơn bác.

  3. xin đính chính:
    1. câu trích dẫn từ J.L. Borgnes :”Dans tous cas, la poésie est antérieure à la pose…”, xin đọc là ”antérieure à la pRose”
    2. câu thơ của TTY ” Xin cám ơn hoa đã vì ta nở…”, xin gi lại cho đúng: ”Cám ơn hoa đã vì ta nở/thế giới vui từ nỗi lẻ loi”.
    Xin cáo lỗi cùng độc giả và tác giả.

  4. Thơ với thẩn của “ranh nhân” văn hóa Hồ!

    “Hòn đá to, Hòn đá nặng

    Đến buồn đi ỉa cũng không cho”

  5. Đủng như tac giả nhân đinh nguòi Miền Nam hiền hòa .Miền Nam ở đây ,là từ vĩ tuyển 17 trở vào.Phải nói như vây ,để biể thể nào là một nền văn hỏa nhân văn-nhân bản. Thiệt là kinh tởm khi một quốc gia có bài Quốc ca uông mảu -ăn thịt người ,như bài quôc ca của bon CS Miền Băc!! Cảm ơn Từ Thưc đả cho tôi nhở lại một thời đả qua.

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên