S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Văn Phổ

17

Người Việt không chỉ thích làm thơ, hay làm quan (hoặc cả hai) mà dường như còn rất ưa làm điệp viên nữa cơ. Bởi vậy, hết thế hệ này đến thế hệ khác – gần hai phần ba thế kỷ qua – họ bị nhà nước CHXHCNVN bắt bớ lu bù:

  • Nhân Dân (21/01/1960): Tòa Án Nhân Dân Hà Nội đã xử vụ gián điệp. Bọn gián điệp bị đưa ra xét xử gồm năm tên: Nguyễn Hữu Đang, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức, Phan Tại và Lê Nguyên Chí.
  • RFA: (03/07/2003): Phạm Quế Dương, Trần Khuê và Trần Dũng Tiến sẽ bị truy tố về tội làm gián điệp.
  • TTXVN (19/06/2003): Phạm Hồng Sơn bị phạt 13 năm tù về tội gián điệp.
  • Tuổi Trẻ (01/01/2004) : Nguyễn Vũ Bình bị phạt 7 năm tù vì tội gián điệp.

Những nhân vật kể trên đều tham dự vào sinh hoạt của giới truyền thông (và đều nổi tiếng) nên tên tuổi của họ, cùng những phiên toà thượng dẫn, được dư luận hết sức quan tâm. Còn những kẻ vô danh khác, cũng vướng vòng lao lý (vì thứ tội danh hàm hồ tương tự) nhưng không mấy ai biết đến.

Ông Nguyễn Văn Phổ (NVP) là một trong số những người “vô danh” như thế. Thản hoặc, thiên hạ mới nghe đôi ba bạn tù nhắc đến tên ông: “Phổ Gián Ðiệp lầm lì ngồi bên Văn Thợ Mộc. Anh sống trong tù như một ốc đảo, không dính dáng với ai, không chơi với ai. Có người nói anh trước hoạt động trong nội thành, sau mất liên lạc với cấp chỉ huy.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghệ: California, 1997).

“Bác Nguyễn Văn Phổ, con học giả Nguyễn Văn Vĩnh, bạn tù của tôi từ năm 1962, hoạt động quân báo nội thành cho cộng sản hồi chống Pháp. Năm 1955, bác bị vu vạ là gián điệp, bị xử 15 năm tù, nhà cửa, tài sản bị tịch thu hết.

Bác được giảm 5 năm, nhưng lại nằm tù 17 năm, một tháng, một ngày, mới được thả! Ra tù độ 7, 8 năm, tòa bí mật xử lại vụ án, và xác định là tất cả vô tội. Bác được bạn bè rỉ tai cho biết việc xử lại này. Bác đến tòa xin được văn bản tòa minh oan cho bác. Bác đã ở vào tuổi bát tuần, bác chỉ yêu cầu chính quyền trả lại ngôi nhà bị tịch thu trị giá khoảng sáu trăm ngàn đô la Mỹ.

Đơn từ gửi các nơi, năm này sang năm khác, không ai buồn giải quyết. Chúng tôi khuyên bác đưa việc này ra công luận thế giới. Cuối cùng tận năm 1995, bác tới nhà tôi nói một thiếu tướng quân đội tới nhà bác, đưa cho bác 100 triệu (gần 10 ngàn đô la Mỹ). Bác đành bằng lòng cho qua hết: ngôi nhà, đồ đạc, tiền bồi thường 17 năm tù oan. Mọi chuyện êm thấm! (Nguyễn Chí Thiện. “Phùng Cung.” Hỏa Lò. Tiếng Quê Hương & Người Việt: Virginia, 2019).

Theo lời một người bạn tù lâu năm khác thì sự việc – xem ra – cũng rầy rà lắm, chứ chả có “êm thấm” thế đâu:

“Tôi nhớ đến bộ quan áo số bạc mầu của anh Phổ. Tới mái đầu húi cua của Phổ. Tới cái gáo nước bằng tôn hoa thõng một bên tay khi anh đi làm, khi anh về trại. Tôi nhớ câu nói của anh làm nhói lòng tôi: ‘Tôi đi tù năm vợ tôi 33 tuổi. Năm nay vợ tôi 51 tuổi rồi.’

Tôi nhớ ngày tôi đến Thanh Xuân Bắc thăm anh khi cả hai chúng tôi đã được ra tù. Chúng tôi ôm lấy nhau. Câu đầu tiên tôi hỏi anh là hỏi về chị Phổ, người phụ nữ ‘chờ chồng từ năm 33 tuổi đến năm 51 tuổi vẫn chờ đợi và không chịu tuyệt vọng.’

  • Chị đâu rồi anh?
  • Nhà tôi vào Sài Gòn đi tu rồi.

Quá bất ngờ. Tôi chỉ muốn kêu trời. Hoặc thét lên một tiếng. Nhưng họng tắc nghẹn.

  • Chị tu ở đâu. Anh cho tôi địa chỉ. Tôi sắp vào trong ấy. Để tôi đến thăm chị.

Phổ lấy giấy bút. Tôi nhìn theo tay anh: Sư cô Trí Tuệ, Tĩnh xá Tòng Lâm 260 Nguyễn Thị Minh Khai (Xô Viết Nghệ Tĩnh cũ) Quận 3. Thành phố Hồ Chí Minh.

Đưa tờ giấy cho tôi, anh hỏi:

  • Anh có đọc được không?
  • Tôi ngơ ngác, không biết anh hỏi gì.
  • Mắt tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi viết theo quán tính. Tôi nhận ra anh vì nghe giọng nói của anh.

Tôi khóc. Hôm ấy tôi đã không giữ được nước mắt. Những giọt nước mắt nóng bỏng. Những giọt nước mắt lặn vào trong. Suốt thời gian ở tù, cùng một toán, cùng là tổ trưởng, chưa một lần Phổ nói với tôi vì sao anh phải vào tù, vì sao anh tù lâu đến thế.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm 2000. Tiếng Quê Hương: Virginia, 2015).

Bùi Ngọc Tấn ra khỏi tù năm 1973, hơn ba mươi năm sau, những thắc mắc “vì sao” của ông đã được giải bầy phần nào trong loạt bài phóng sự (“Chuyện Về Một Chiến Sỹ Tình Báo Bị Tù Oan Hơn 17 Năm – Chuyện Buồn Nhưng Có Hậu”) của nhà báo Việt Hằng, đăng làm hai kỳ trên báo Gia đình & Xã hội, số ra ngày 7/8/2005 & 09/08/2005.

Xin trích dẫn đôi đoạn để rộng đường dư luận:

Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Phổ mang toàn bộ tiền dành dụm của gia đình mua thuốc ảnh, máy móc ủng hộ kháng chiến và cùng công nhân theo báo Cứu Quốc lên Chi Nê (Hòa Bình) làm công nhân nhà in. Tháng 1 năm 1948, Cục Tình báo, thuộc Nha Liên lạc, Phủ Thủ tướng (nay là Tổng cục 2 – Bộ Quốc Phòng) tuyển Nguyễn Phổ vào mạng lưới tình báo quân đội và đưa về hoạt động nội tuyến với vỏ bọc là thợ làm ảnh kẽm tại nhà in ở Hà Nội.

Tại tổ tình báo ấy có một người bạn mà Nguyễn Phổ từng chơi rất thân là nhà văn Vũ Bằng (*). Nhiệm vụ của tổ là thu thập tin tức chuyển ra chiến khu qua hộp thư giao liên…

Sau ngày giải phóng thủ đô, một trong những nhiệm vụ của ngành công an là bóc gỡ những đường dây gián điệp Pháp, Mỹ cài lại và nhóm tình báo của ông Phổ (do Cục 2 – Bộ Quốc phòng quản lý) cũng bị công an Hà Nội đưa vào tầm ngắm (cũng dễ hiểu vì nhóm này có nhiều người quá nổi tiếng, một nhà văn bị mang tiếng “dinh tê” từ thời kháng chiến, một người lại từng làm nhân viên sở Mỹ).

Vì vậy, sau khi nhà văn Vũ Bằng vào Nam mà ông Phổ ở lại, ngày 29/9/1955, Nguyễn Phổ bị bắt khi đang làm việc ở Nhà in Tiến Bộ. Ngày đó, rất vô tình xưởng sản xuất ở nhà in bị cháy mà lại cháy từ tủ đựng đồ của Nguyễn Phổ. Khám nhà riêng của ông Nguyễn Phổ, người ta thu được máy và những vật liệu in ảnh kẽm. Vậy là với ba tội danh: Làm gián điệp Mỹ, nói xấu chế độ, đốt công xưởng và ăn cắp của công, ông Phổ bị tuyên bố 15 năm tù giam.  

Khi mới bị bắt, ông đã kêu oan. Nhưng vào thời đó, chẳng ai chịu nghe lời kêu cứu của một người mắc tội tày trời là làm gián điệp. Còn những người chỉ huy thì không thể đứng ra minh oan cho ông, bởi nếu cứu được ông thì những người đang hoạt động trong lòng địch sẽ lộ. Đây chính là bi kịch của những người làm tình báo.

Mười bảy năm ông bị tù oan là 7 đứa con lần lượt lớn lên trong thiếu thốn và cả sự kỳ thị vì là con của gián điệp, với một lí lịch “đen”, chẳng ai được vào đại học dù học rất giỏi và phải vào đời bằng những con đường nhọc nhằn khác…

 Ngày 30/10/1972, ông được trả tự do sau 17 năm 1 tháng 1 ngày ngồi tù, khi đã bước sang tuổi 56…  Những năm cuối đời, ông Phổ sống khá lặng lẽ. Các con ông dù phải vào đời bằng những con đường khá chật vật nhưng đều là những công dân tốt. Trong những câu chuyện với các con, ông ít khi nhắc lại chuyện cũ… Bây giờ nhắc lại những chuyện đã qua, các con ông vẫn bảo đời ông là câu chuyện buồn nhưng có hậu và tự động viên nhau rằng sống ở đời này đâu phải ai cũng đều gặp may mắn.

 Không riêng gì NVP mà cả đình ông (gần cả chục thành viên) “chín người mười cuộc đời rạn vỡ/ bị ruồng bỏ và bị lưu đầy” – theo như cách diển tả của nhà thơ Phùng Quán. Vậy mà “các con ông vẫn bảo đời ông là câu chuyện buồn nhưng có hậu” được chăng? Sao “cái hậu” thời nay mỏng thế và bạc vậy?

——————-

(*) Chúng tôi cũng có vài trang sổ tay viết về nhà văn Vũ Bằng, cũng xuất bản trong năm 2023, trên diễn đàn này: tuongnangtien.wordpress.com

17 BÌNH LUẬN

  1. Đảng cộng sản VC bắt người tù chính trị trong nước nhưng không bao giờ VC thừa nhận là tù chính trị, nhưng giữa chế độ cộng sản và tù chính trị bên nào sẽ đổ trước và bên nào sẽ trường tồn thì câu trả lời là chế độ cộng sản VC sẽ phải sụp đổ bởi người tù chính trị.

    Người tù chính trị VN sẽ không bao giờ mờ dần mà hiên ngang hiện diện và tồn tại ngay trong lòng chế độ cộng sản. Bao lâu chế độ cộng sản còn tồn tại thì tù chính trị cũng sẽ đấu tranh song song và tồn tại cho tới khi chế độ sụp đổ.

    Nguyễn Phú Trọng có bắt bao nhiêu hay bắt hết lớp già thì lớp trẻ lại tiếp nối. Hết thế hệ này thì thế hệ khác lại đứng lên đấu tranh cho đất nước cho tới khi nào chế độ cộng sản phải sụp đổ. Trọng không sống và tồn tại lâu hơn tù chính trị. Chế độ sẽ phải sụp đổ để những người tù chính trị vươn lên và đây là con đường sáng và tất yếu của dân tộc và đất nước VN.

    Đảng cộng sản chỉ làm “cách mạng” cho chúng và cho ngoại bang, không phải cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Họ lừa dối với tất cả mọi người. Họ giết dân; họ bỏ tù người làm chính trị; họ cướp nước; họ bán dân… Không một tội ác nào đảng cộng sản không dùng tới với dân tộc VN.

    Hiện có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn và hàng triệu người dân VN đang tù ngay tại chính quê hương đất nước của mình. Cộng sản có thể bỏ tù cả nước nhưng không thể bỏ tù được ý chí của người tù chính trị VN.

    Chế độ cộng sản sẽ không tồn tại mà phải sụp đổ trước mắt người tù.

  2. Since Tưởng Năng Stench là 1 trong những người khóa hòa giải hòa hợp với Đảng . Ngôn ngữ này lung linh hơn, để coi dân hải ngoại có “cảm” được cái thứ này hông

    Ai cũng có một quê hương mà người ta tự nhiên thấy phải quay về.

    Cái quầng sáng bồn chồn thương nhớ đó

    Cứ từng đêm nức nở gọi ta về

    Tác giả những câu thơ ấy, nhà thơ Lê Anh Xuân tên thật Ca Lê Hiến, đã mất trước cửa Sài Gòn. Bảy năm sau đó đồng đội của anh đã vào được cái quầng sáng ấy với tư cách người chiến thắng

    Ai mún zìa với cái vầng sáng của Lê Anh Xuân nào ?

  3. Từ từ ta trở lại thành Người!

    Khi “hiến kế” đặc khu kinh tế
    Nhưng tôi đặt trọng tâm văn hóa
    Nhật Bản – Đại Hàn -Tân Gia Ba
    Minh bạch – sạch sẽ – không gian trá!

    Kinh tế với tôi là phụ thôi
    Và nếu có thể ta lai giống
    Dâu Việt Nam không đi xa xôi
    Nô lệ tình dục – dâu nhà Tống!

    Tất cả rác sẽ chứa trong thùng
    Khắp nơi phòng vệ sinh công cộng
    Không ô nhiểm không còn vi trùng
    Cắt đứt giao dịch với Trung cộng!

    Từ từ ta trở lại thành Người
    Ra phố sẽ vắng bóng “anh hùng”
    Không hoang tưởng đui mù té nổ
    Không cuồng Hồ cuồng đảng điên khùng!

    Nông Dân Nam Bộ

  4. Cả 2 phía đều tranh nhau yêu Đảng

    Đặng Sơn Duân: Thời cơ hội qua rồi, khi thua cuộc. Phải chấp nhận thực tế và sống với nó. Tôi chỉ hy vọng! Hy vọng đến lúc nào đó chín muồi họ có thể đặt quốc gia dân tộc lên hàng đầu và hy vọng vào một Việt Nam hùng cường!

    Thua và hòa bình, thống nhất đã đến bằng một cách nào đó. Không oán hận, đó là một lịch sử đau buồn, mà dù ở bên nào chắc hẳn không người Việt nào muốn nó từng diễn ra

    Nguyễn Thanh Việt: Cá nhân tôi mong muốn rằng, những người Mỹ gốc Việt khi tưởng nhớ quá khứ của mình, cũng nhìn nhận lịch sử dưới con mắt của “phía bên kia”. Những người Mỹ gốc Việt đang tưởng nhớ về những mất mát, những sự ngược đãi mà họ phải gánh chịu, nhưng chính bản thân họ cũng “quên mất” những điều mà họ đã gây ra cho người khác. Và tôi nghĩ rằng chính những người Mỹ gốc Việt đó, những người sống trong tại miền Nam Việt Nam phải chịu trách nhiệm cho những vấn đề và những hành động của mình tại Việt Nam cũng như tại Hoa Kỳ.

    Vậy nên, điều quan trọng ở đây là khi chúng ta ghi nhớ những điều mà “phía bên kia” gây ra cho mình, thì cũng đừng quên những thứ mà mình đã làm đối với họ.”

    Kiểu này thì Đảng vưỡn sống mãi mãi lun

  5. Dân hải ngoại nên xì tốp wan tâm tới WTF happened với những thằng/con đảng viên hoặc/và theo Cộng Sản, như Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Văn Phổ hay Lê Đình Kềnh . Phúc ’em, phúc ’em all. Nếu Đảng Phúc them in the arses, well, ta nên ủng hộ Đảng . Lâu lém từ hồi trước 75 tới giờ mới thấy đảng viên bị đền tội . Còn sai hơn nữa nếu kính trọng tụi nó . Xít chó để lâu ngày hổng thành bơ được thì Cộng Sản lâu ngày cũng đ thành trí thức nủi

    Unless you believe in this xít “Đối với chính quyền ta không có đối đầu, không “âm mưu lật đổ, chống phá”-Mạc Văn Trang . Nếu thía thì nên đề xuất đổi tên Little Saigon thành Hochiminh II, đường Lê Lợi thành Lê Duẩn, & Trần Hưng Đạo thành Trần Quốc Hoàn . About sêm sêm với tin vào điều trên

  6. Trích tiếp 1 người có văn phong tương tự

    “60 năm trước (năm 1964), sau một chuyến công tác vào tuyến lửa Quảng Bình, nhạc sĩ Hoàng Vân cho ra đời ca khúc “Quảng Bình quê ta ơi” và sau đó không lâu, với giọng hát của ca sĩ Kim Oanh và tốp ca nữ, “Quảng Bình quê ta ơi” đã vang lên hùng tráng, thiết tha trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Từ đó “Quảng Bình quê ta ơi” lan rộng khắp cả nước đặc biệt là với người dân Quảng Bình … Nếu đất nước có quốc ca là “Tiến quân ca” của Văn Cao thì Quảng Bình có tỉnh ca là “Quảng Bình quê ta ơi” của Hoàng Vân, một bài tỉnh ca được cho là hay nhất … bài hát về một địa phương, trong nền âm nhạc cách mạng Việt Nam

    Sự nghiệp sáng tác âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân gắn liền với những biến động của lịch sử dân tộc qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ … Hoàng Vân còn có những tác phẩm âm nhạc nổi tiếng khác như “Hò kéo pháo” được xem là binh chủng ca của những người lính pháo binh Quân đội Nhân dân Việt Nam

    Năm 2000 nhạc sĩ Hoàng Vân đã vinh dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước trao tặng

    Sêm xítty language, different outcome

  7. Tôi nghĩ dân mình sẽ welcome!

    Bất chợt nhớ ra là ta có
    Ba đặc khu kinh tế Việt Nam
    Năm hai ngàn mười tám trước đó
    Nhưng vì người dân “không an tâm”

    Chỉ vì sợ rợ Hồ dâng Tàu!

    Tôi nghĩ dân ta không chống đối
    Nếu ta hợp đồng Tân Gia Ba
    Ký công tra đảo ngọc Phú Quốc
    Ngày vinh quang chắc sẽ không xa!

    Vân Đồn ta hợp đồng Nhật Bản
    Họ sẽ biến thành một hải cảng
    Văn minh sạch sẽ hơn Hồng Kông
    Có thể hơn cả cảng Thượng Hải!

    Đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong
    Cùng Nam Hàn “công tra hợp tác”
    Họ sẽ biến thành cảng Pusan
    Sạch sẽ tân tiến là cái chắc!

    Ba đặc khu kinh tế Việt Nam
    Sẽ hơn cả Thẩm Quyến Trung cộng
    Hóa giải khỏi đói nghèo lầm than
    Và có nhiều cầu tiêu công cộng!

    Tại sao tôi đề nghị như vậy?
    Nhật Bản – Nam Hản – Tân Gia Ba
    Cả ba đều văn minh sạch sẽ
    Họ tử tế hơn Ta – Trung Hoa!

    Tân Gia Ba lại gần Phú Quốc
    Họ chẳng đang lấn biển là gì
    Khánh Hoà, Đại Hàn họ từng ở
    Phần Nhật Bản giao họ Vân Đồn

    Ta sẽ không lo phần Trung cộng
    Trọng lú không cần xây lò tôn
    Cả ba quốc gia đều minh bạch
    Tôi nghĩ dân mình sẽ welcome!

    Nông Dân Nam Bộ

  8. Cũng Xin trích dẫn đôi đoạn để rộng đường dư luận . Fair Warning: Tớ trích thẳng từ bài này, aka written by Tưởng Năng Stench. Nên nếu có gì, it aint my “văn tài” -or the absence of it. Cho những chiên da chích đùi của Tưởng Năng Stench, none of this xít is mine

    “Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Nguyễn Phổ mang toàn bộ tiền dành dụm của gia đình mua thuốc ảnh, máy móc ủng hộ kháng chiến … Cục Tình báo, thuộc Nha Liên lạc, Phủ Thủ tướng (nay là Tổng cục 2 – Bộ Quốc Phòng) tuyển Nguyễn Phổ vào mạng lưới tình báo …

    Sau ngày giải phóng thủ đô, một trong những nhiệm vụ của ngành công an là bóc gỡ những đường dây gián điệp Pháp, Mỹ cài lại … Các con ông dù phải vào đời bằng những con đường khá chật vật nhưng đều là những công dân tốt. Trong những câu chuyện với các con, ông ít khi nhắc lại chuyện cũ… Bây giờ nhắc lại những chuyện đã qua, các con ông vẫn bảo đời ông là câu chuyện buồn nhưng có hậu”

    Nhưng tớ trích 1 “văn tài” mà Tưởng Năng Stench ngưỡng mộ là Nguyên Ngọc thì có đứa nhảy dựng lên như gái ngồi phải cọc

  9. Vũ Bằng mà ở lại
    với Hồ chí Minh , thì
    chắc cuộc đời cũng
    giống như Nguyễn
    văn Phổ .

    Làm “gián điệp” trong
    lòng giặc Nguỵ ,sướng
    hơn làm gián điệp phục
    vụ cho Đảng ta .không biết
    lúc nào thì bị Đảng ta trở mặt
    cho đi tù vì Đảng ta ưa lẫn lộn
    “gián điệp ta” và “gián điệp địch”.
    Khi thì “ta”,khi thì “địch”,Đảng ta
    ưa nhập nhằng tuân
    theo “ý chỉ” của tay
    chúa đảng Hồ chí Minh .

  10. Đâu là sự khác biệt?

    Cô ca sĩ thanh nhạc miền Bắc
    Chê ca sĩ miền Nam thất học
    “Mầy có biết ông là ai không?”
    Lời người Bắc Kỳ bên thắng cuộc!

    Đó không là khác biệt Bắc Nam
    Mà đó chính là sự khác biệt
    Giữa Bắc năm tư và bảy lăm
    Đang hủy diệt giống nòi Lạc Việt!

    Nông Dân Nam Bộ

    Tao biết rõ tụi mầy là ai!

    Tao biết rõ tụi mầy là ai
    Một thứ quái thai của thời đại
    Một lũ khuyển ưng thứ tay sai
    Vô nhân tính rừng rú hoang dại

    Hình người biết ăn và làm tình
    Bầy đàn lang sói thứ súc sinh
    “Tàu lạ” “người lạ” đồ vô loại
    Thời đại mọi rợ Hồ Chí Minh!

    Nông Dân Nam Bộ

    Ông “ba que xỏ lá”

    Tôi biết “ông” là ai
    “Ông Bắc Kỳ lý luận”
    “Ông” là thằng tay sai
    Là thứ đồ vô dụng

    Biết bố ông nữa là
    Tôi biết luôn cả “bác”
    Cả họ nhà “Ba Ke”
    Ông ba hoa khoá lác

    Bắc Trung Nam vùng miền
    Nam Trung kỳ cứ gọi
    Mọi người nghe tự nhiên
    Nhưng Bắc kỳ cấm kỵ

    Mỗi khi nghe nổi điên
    Vì đâu ông nên nỗi
    Cùng là giống Rồng Tiên
    Cùng da vàng máu đỏ

    “Ông ba ke” bảy lăm
    Ông rước giặc ngoại xâm
    Ông điêu ngoa xảo trá
    Ông gieo rắc hờn căm

    Ông “Ba Que Xỏ Lá”
    Ông chơi cha chó má!

    Và hơn thế nữa – trên tất cả
    Thằng anh cả ôn dịch thổ tả
    “Bắc Kỳ lý luận” tổng bí thư
    Đồ mẹ rượt đui mù té nổ!

    Nông Dân Nam Bộ

  11. Có bao giờ như thời rợ Hồ?

    Từ Bắc chí Nam tràn ngập nước
    Ngay cả ở những vùng miền cao
    Thất Sơn Bảy Núi – vùng sơn cước
    Không chừa bất cứ thành phố nào!

    Không mưa thành phố vẫn ngập nước
    Đất nước ta có như bây giờ
    Kể từ xa xưa mới lập quốc
    Có bao giờ như thời rợ Hồ?

    Người Hà Nội ngập nước lụt lội
    Nhưng khát nước thiếu nước tiêu dùng
    Vì đâu nước mình ra nông nỗi
    Điêu linh thống khổ đến tận cùng!

    Nông Dân Nam Bộ

  12. Bất công – áp bức – dã man!

    Nhân Quả – Vô Thường như định luật
    Hư ảo – huyền bí, thuộc Tâm Linh
    Nhưng đó lại là chuyện có thật
    Có thật, hiển hiện rõ – vô hình

    Gia tộc nhà Nguyễn vẫn còn đó
    Nhứt là ở ông vua cuối cùng
    Nào lâu đài hoàng triều cương thổ
    Nào biệt phủ cung điện hoàng thành

    Rồi đây tới phiên bọn cộng sản
    Lũ đồ tể bầy đàn Ba Đình
    Bao đời con người vẫn mê sảng
    Lòng tham không đáy mãi vô minh

    Ăn thịt bò dát vàng rắc muối
    Giá bằng cả năm lương công nhân
    Hàng năm vào đầu mùa giáp hạt
    Nông dân không có gì để ăn

    Có những điều chướng tai gai mắt
    Có người thương Bảo Đại cuối đời
    Thèm ăn một tô bún bò Huế
    Có người thương hoàng hậu Nam Phương

    Sống trong lâu đài trên đất Pháp
    Không biết bà ta giàu cỡ nào
    Tầm cỡ như gia đình “Chú Hỏa”
    Cũng không ngang hàng Nguyễn Hữu Hào

    Giàu bậc nhất Nam Kỳ – Huyện Sỹ
    Nhì Phương – tam Xường mới tới Hỏa
    Huyện Sỹ là ông ngoại Nam Phương
    Trong khi người dân chạy từng bữa

    Một khoa bảng sống trong nghèo nàn
    Có làm cho bạn thấy bàng hoàng
    Có lòng thương cảm nhà cách mạng
    Không tiền chữa bịnh như Cụ Phan?

    Nguyễn Tường Tam mới mười chín tuổi
    Từ Bắc vô Nam dự đám tang
    Nguyễn Khoa Nam trước khi tuẩn tiết
    Đi vào bịnh viện thăm thương binh

    Dân ngu khu đen đang rên xiết
    Mất đất mất nhà ai cũng biết
    Bao nhiêu dân đen đang lầm than
    Bao lâu rồi lang thang lết thết?

    Bất công – áp bức – dã man!

    Nông Dân Nam Bộ

  13. Vô cảm – ngậm câm – cúi đầu!

    Vì đâu nước mình ra nông nỗi
    Điêu linh thống khổ đến tận cùng?
    Tất cả chúng ta đều có lỗi
    Với bậc tiền nhân từ Vua Hùng

    Với cả những người nằm trong mã
    Thế hệ tuổi trẻ hiện bây giờ
    Thế hệ chưa sanh ra kể cả
    Ta để lũ “cờ lờ mờ vờ”

    Lũ Ba Đình ôn dịch thổ tả
    Rước kẻ thù truyền kiếp giặc Tàu
    Ta hèn hạ sợ hãi nhục nhã
    Vô cảm – ngậm câm – cúi đầu!

    Nông Dân Nam Bộ

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên