Tạp văn (tưởng nhớ anh Hoàng Hải Thủy)
Buổi sáng thứ hai 7.12.2020, các bạn hữu của tôi ở vùng Virginia, liên tục gửi tin nhắn và emails báo tin anh Hoàng Hải Thủy vừa từ trần đêm Chủ nhật hôm trước tại Virginia Hospital Center, Arlington, sau hai tuần được đưa vào đây. Đến buổi chiều, sau khi lo xong mọi thủ tục với nhà quàn về ngày giờ và việc tang lễ, qua điện thoại, Kiều Giang mới bình tâm ngồi kể lại cho vợ chồng tôi nghe chi tiết những giờ phút cuối đời của bố mình.
Trước đấy, lúc thăm hỏi bố qua điện thoại từ nhà, cũng khá xa, nghe tiếng bố ho nhiều, Kiều Giang đã lái xe sang ngay để lo việc chăm sóc. Đến hôm ấy, thấy sức khỏe của bố có dấu hiệu suy giảm nhanh quá, nên gọi xe cấp cứu để đưa vào bệnh viện, nhưng rồi cũng không thể làm gì hơn.
Đang trong tình hình dịch bệnh, việc ra vào thăm viếng bệnh nhân của người nhà, vô cùng giới hạn và khó khăn. Gia đình chỉ được nhận các thông tin từ bệnh viện qua điện thoại.
Kiều Giang được biết, theo lệnh của Bác sĩ điều trị tại bệnh viện, cứ mỗi đầu giờ, y tá trực phải vào thăm chừng bệnh tình để cập nhật báo cáo tình trạng. Tối khuya Chủ nhật 06.12.2020, người y tá nói lúc 10:00 giờ, anh Hoàng Hải Thủy vẫn còn tỉnh táo, và ra hiệu tỏ ý muốn được yên tĩnh, vì đang buồn ngủ. Đến khoảng 11:00 giờ hơn gì đó, khi lại bước vào phòng, đến bên giường bệnh, chuẩn bị làm các công việc theo dõi như thường lệ, mới biết anh Hoàng Hải Thủy đã trút hơi thở cuối cùng từ lúc nào mất rồi.
Cũng mừng vì nhiều ngày trước, Kiều Giang đã xin Linh mục Tuyên úy bệnh viện cử hành các bí tích nhà đạo, lo liệu xong phần thiêng liêng cho bố. Sau ngày mẹ mất, Kiều Giang biết bố mình đã có lòng trông cậy và vẫn luôn thì thầm cầu nguyện với Chúa cho mẹ (là người Công giáo đạo gốc).
Vậy là anh đã yên nghỉ trong Chúa thật thanh thản nhẹ nhàng và an lành, như đi vào một giấc ngủ và chẳng bao giờ còn thức dậy nữa.
Cuộc giã từ cõi trần đời vô cùng êm ả và thật đẹp đến thế là cùng. Lão ông công tử gốc Hà Đông, lặng lẽ giã biệt đất trích Rừng Phong yêu mến của mình, giã biệt những con chữ qua bao tháng năm được anh cho nhẩy múa mải mê trên từng trang viết, làm vui cho người cho đời; để cất bước tiêu dao nơi chỗ có nhiều niềm vui mới.
Công tử Hà Đông là một trong những bút hiệu (như Gã Thâm) anh sử dụng, để viết văn trào phúng trên tuần báo Con Ong từ những năm 1970, cùng với anh Dê Húc Càn (Dương Hùng Cường).
Đã có những tâm tình thương quý anh và chia sẻ sự đau buồn với tang quyến, được bầy tỏ rất sớm, từ khắp nơi qua những trang mạng, facebook….
Tôi nhẩm đếm nhanh ngưỡng tuổi tám mươi tám của anh, sắp đến chín bó rồi, theo cách ví von tuổi tác vui đùa anh hay nói. Tôi cũng nói vui với mấy người bạn thân thiết rằng, vì quá nhớ thương chị Alice, đã xa anh gần hai năm, nên anh nóng lòng muốn đi tìm vậy mà. Cuộc tình của anh chị đã thật tuyệt đẹp với tất cả sự lãng mạn ngay từ thuở ban đầu, qua suốt mấy chục năm, cho đến ngày cuối cuộc đời.
Sau ngày chị bỏ anh lại để ra đi trước cách đây hai năm, chừng như anh bắt đầu suy sụp dần. Ngày ấy, tuy có lúc phải dùng xe lăn, anh vẫn khỏe mạnh và chậm rãi kể cho tôi nghe từng chi tiết về mấy ngày cuối đời của chị. Có lẽ, mỗi ngày anh đều phải chống chỏi với sự cô đơn và thương nhớ nơi căn phòng trong chung cư dành cho người cao niên, vốn đầy ắp sự hiện diện quen thuộc của chị.
Thật xúc động quá, sau khi chị mất và được hỏa thiêu, anh đã giữ hũ đựng tro cốt của chị tại ngay căn phòng này, để ngày ngày anh vẫn có thể thấy chị gần gũi, và vẫn được chuyện trò, như chưa hề có chia ly cách biệt. Anh dặn rằng đến lúc anh giã từ cuộc đời, và sau khi hỏa thiêu, đem hòa trộn tro cốt anh chung với tro cốt chị, để anh chị vĩnh viễn được ở bên nhau. Có gì còn tuyệt mỹ hơn như thế.
Từ ngày xưa, anh đã nổi tiếng trong văn giới là người rất thương chị vô cùng. Đến nỗi anh Duyên Anh từng bảo anh là người “lụy” vợ.
Theo thời gian, tuổi đời chồng chất thêm lên và sức khỏe thì giảm sút hẳn, khi mùa đông lạnh giá năm nay đã đến, anh không vượt qua được cái giới hạn cuối cùng của phận người mong manh.
Theo cách nói lãng mạn, như vậy anh chị đã có cuộc trùng phùng, sau một quãng đời cách xa ngắn ngủi.
Trong nỗi bùi ngùi, tôi bồi hồi nhớ lại ít nhiều kỷ niệm với anh Hoàng Hải Thủy và gia đình anh chị, từ những năm tháng cũ.
*
Trước ngày ba mươi tháng Tư năm 1975, như mọi người khác, tôi cũng chỉ là một trong những độc giả của anh, và đương nhiên có một khoảng cách xa lạ, vì khác biệt môi trường sinh hoạt.
Thế rồi, sau khi đi tù cải tạo ở ngoài Bắc về hồi đầu năm 1981, qua anh Dương Hùng Cường, một ông anh nhà văn nhà báo thân quen cùng đơn vị ở Không Quân ngày trước, tôi có nhiều thuận dịp gặp gỡ, rồi dần dần cũng trở thành thân quen, gần gũi với anh Hoàng Hải Thủy cùng cả nhà (giống như với anh Duy Trác). Anh Hoàng Hải Thủy là một trong số mấy văn nghệ sĩ, vẫn còn ở lại Việt Nam thời gian ấy, mà anh Dương Hùng Cường giới thiệu với anh Trần Tam Tiệp.
Anh Trần Tam Tiệp cũng là một ông anh sinh hoạt văn chương báo chí Không Quân, mà tôi có nhiều gắn bó thân tình từ trước năm 1975. Lúc đó, anh là Tổng thư ký Văn bút Việt Nam hải ngoại bên Paris. Cứ cách một vài tháng, anh gửi về giúp đỡ từng anh em chúng tôi bằng những gói quà, trọng lượng 2 pounds, gồm vài thứ thuốc tây (rất thông dụng và dễ tiêu thụ trên thị trường). Chúng tôi cũng gửi những bài vở sang cho anh để đáp lại sự ân cần thương mến này.
Có thể vì biết mối giao tình của tôi với anh Trần Tam Tiệp và anh Dương Hùng Cường, nên anh Hoàng Hải Thủy dễ dàng dành cho tôi nhiều thiện cảm. Tuy vậy, tôi vẫn luôn giữ khoảng cách chừng mực cần thiết, để biếu tỏ sự tôn trọng trên dưới, như đối với những ông anh khác. Chính anh chị đã xóa đi sự ngại ngần của tôi và tạo sự gần gũi thân tình hơn, xem tôi như một người em trong gia đình, để sẵn lòng chuyện trò mọi thứ, mỗi khi tôi đến thăm anh chị ở khu cư xá Tự do vùng Chí Hòa, gần ngã ba Ông Tạ và ngã tư Bẩy Hiền. Tôi nhận ra anh là người dễ gần gũi hòa đồng, không có vẻ gì tỏ ra từng là một nhà văn nổi tiếng một thời.
Chị vui miệng kể về cuộc tình thật đẹp với anh, từ hồi 1954. Bắt đầu tình yêu với một ông viết văn làm báo, nhưng chị lại đắm đuối vì những lời thơ lãng mạn anh viết cho chị, hơn là những dòng chữ của con người tài hoa. Nhiều lần, tôi vẫn nghe chị đọc những câu thơ đã nhập tâm và thuộc nằm lòng:
Mùa Thu mây trắng xây thành
Tình em mầu ấy có xanh da trời
Hoa lòng em về có tươi
Môi em có thắm nửa đời vì anh.
Cũng không thiếu những sóng gió, chị nói kèm theo nụ cười hóm hỉnh khi nhắc đến chuyện đã từng có thời gian giận dỗi anh rất lâu. Anh thì tâm tình với tôi, hồi trẻ quần áo rất lôi thôi, xuề xòa và cù lần lắm. Từ khi có sự chăm chút của chị, anh mới bắt đầu chưng diện và ăn mặc đỏm dáng. Chị chọn cho anh từ mầu áo sơ mi cho đến từng cái dây thắt lưng, đôi giầy vớ…
Một lần, nghe chị bảo nhìn anh mặc đi mặc lại mấy quần tây cũ, trông bèo nhèo thảm não quá, anh ngỏ ý nhờ tôi nói với dượng Ba (tên riêng chúng tôi gọi anh Trần Tam Tiệp) gửi cho anh cái quần jean Levi’s, để cho dáng vóc có vẻ khỏe mạnh hơn. Từ khi nhận được món quà này, thấy anh mặc thường xuyên mỗi khi ra khỏi nhà.
Thỉnh thoảng có anh Dương Hùng Cường cùng ghé đến anh chị. Anh em chúng tôi ngồi chuyện trò lâu hơn. Cũng có khi đi đâu đó ngang qua vùng Phú Nhuận nhà tôi, anh tạt vào rủ đi uống cà phê, hay ra quán cóc đầu hẻm cổng xe lửa số 6, ngồi uống xị rượu thuốc, và đồ mồi là đĩa đậu phụng rang, tán gẫu chuyện đời.
Tính anh rất thẳng và bộc trực. Một vài lần đến dự buổi gặp mặt thân hữu tại nhà anh Cao Nguyên Lang, ở làng báo chí cũ, khi thấy cũng có mặt mấy ông nhà văn thân Cộng, anh bầy tỏ thái độ không vui và gọi tôi bỏ ra về ngay.
Tôi còn nhớ dịp gần đến tết Nhâm Tuất, hồi đầu năm 1982, Văn Bút hải ngoại có nhờ anh Duy Trác tổ chức bữa họp mặt tất niên, khách mời gồm một số văn nghệ sĩ tên tuổi. Địa diểm là căn nhà của chị Kiều Chinh ở cư xá Lữ Gia Phú Thọ, mà anh Duy Trác hỏi mượn được. Anh Hoàng Hải Thủy dặn tôi ghé qua anh để cùng đi, vì tiện đường. Chiều hôm ấy, khi tôi đến nhà, thấy anh đang ngồi tiếp chuyện anh Duyên Anh. Anh ra hiệu cho tôi vào phòng trong để nói tôi cứ đi trước.
Hình như mọi người đang có ý đợi nên tỏ vẻ ngạc nhiên khi không thấy anh Hoàng Hải Thủy cùng bước vào. Nghe tôi nói sự việc, không khí bắt đầu bàn tán sôi nổi. Tôi nghe có vị bảo nhân tiện thì mời luôn Duyên Anh cho vui, nhưng mấy vị khác nói hễ có Duyên Anh thì các vị ấy sẽ về. Anh Duy Trác hơi bối rối, nhờ tôi quay trở lại cho anh Hoàng Hải Thủy biết mọi chuyện như thế.
Tôi ra lấy xe đi ngay. Nhưng rồi nơi phòng khách nhà anh, chừng như anh Duyên Anh vẫn còn tiếp tục say sưa câu chuyện chưa muốn dứt. Anh Hoàng Hải Thủy lộ rõ sự bồn chồn khi thấy tôi quay lại. Anh theo vào dưới nhà bếp, nghe tôi kể lại đầu đuôi. Và anh bước lên nhà trên, nói thẳng luôn với anh Duyên Anh nguyên văn những ý kiến của các vị khách mời bên buổi họp mặt đang ngồi chờ bắt đầu bữa ăn. Anh Duyên Anh nghe xong điềm tĩnh đứng dậy vui vẻ ra về và chúc chúng tôi có một buổi họp mặt vui. Tôi giật mình vì sự thẳng thắn của anh, cứ nghĩ rằng anh sẽ có cách nói khéo léo tế nhị nào đó, đâu ngờ.
*
Cũng từ việc liên lạc với anh Trần Tam Tiệp, nhận quà cáp, gửi bài vở ra hải ngoại, tôi cũng bị chính quyền Cộng sản bắt vào đầu tháng 5/1984, cùng với anh và các anh chị khác (Doãn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Duy Trác, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn), rồi ra tòa nhận án tù, trong vụ án quen gọi là “Những tên biệt kích cầm bút”. Từ ngày đó, anh em chúng tôi thêm gần gũi và thân thiết hơn.
(Khi sang Hoa Kỳ, bên cạnh những sáng tác khác, để phản bác chế độ Cộng sản, anh đã kể lại câu chuyện vụ án này, qua những bài viết, rồi được tập hợp in thành sách với nhan đề cùng tên, giúp mọi người hiểu thêm nhiều tình tiết sự việc.)
Tháng 5/1988, tôi và anh Duy Trác ra tù trước. Rồi trong cuộc mưu sinh, theo chân chị Dương Hùng Cường, mấy gia đình cùng đi vào nghề bán Căng tin trường học.
Kiều Giang len lỏi bỏ thầu, kiếm được một chỗ ở ngôi trường, nằm ngay góc ngã tư đường Nguyễn Bỉnh Khiêm-Hồng Thập Tự, sát cạnh Thảo Cầm Viên, ngay niên khóa 1988-1989, và rủ ông chú tham gia việc buôn bán này. Năm học tiếp theo, 1989-1990, chuyển sang một trường trung học lớn hơn trên đường Lý Thường Kiệt (Nguyễn Văn Thoại cũ), gần chợ Tân Bình. Đây cũng là thời gian anh Hoàng Hải Thủy mãn án tù, về sum họp với gia đình.
Kiều Giang huy động anh em trong nhà, Hoàng Hoài Nguyên, Hoàng Hải Triều và thêm vài người thân quen nữa, mới đủ nhân lực bán hàng cho các lúc đầu buổi học, giờ ra chơi của học trò. Mấy chú cháu đã có một thời gian dài, mấy năm liền, ngày ngày cùng nhau chia sẻ vui buồn, cay đắng nơi công việc buôn bán, tưởng chừng tạp nham vặt vãnh, nhưng cũng tạm ổn định phần nào cho cuộc sống khi ấy, của gia đình anh chị Hoàng Hải Thủy. Tôi biết trước đó, để lo cho bố mẹ, Kiều Giang đã phải tất tả ngược xuôi, bươn chải với đủ thứ công việc thất thường ngày đêm, vô cùng vất vả khổ nhọc.
Riêng tôi, làm sao có thể quên được ngày tháng ấy của mình:
Tấp tểnh theo đòi việc bán buôn
Loanh quanh qua buổi cũng đỡ buồn
Vài ba cục kẹo dăm đồng lẻ
Một lũ trẻ ranh quấy rầy luôn
May ra đỡ vợ được tí gạo
Chợ đời nhấp nhổm khỏi lỏi luồn
Ai buôn thất nghiệp mơ triệu phú
Riêng mỗi mình ta một nỗi buồn
Anh Hoàng Hải Thủy nói vì tuổi tác, nên không biết xoay sở cách gì để có thể lo cho gia đình. Anh nói cám ơn tôi vì đã luôn bên cạnh để chung sức và giúp đỡ các cháu. Tôi cũng thật lòng thưa lại với anh, dù chú cháu cùng nương tựa vào nhau, nhưng mọi thứ đều do công lao khó nhọc của Kiều Giang là chính, tôi chỉ góp phần phụ vào, đâu đáng gì.
Có thể anh được nghe kể đủ thứ chuyện liên quan đến việc buôn bán hàng ngày ở trường học của mấy chú cháu chúng tôi, liên tục từ sáng sớm với mọi thứ chuẩn bị cần thiết, cho đến khi chiều muộn, dọn dẹp xong xuôi mới có thể về nhà. Chắc hẳn không thiếu chuyện căn phòng nhỏ nhà trường dành làm kho cho căng tin, cũng là chỗ các ông thầy giáo trẻ, kể cả Hiệu phó (đều là dân sư phạm miền Nam), ra vào thường xuyên hơn phòng giáo viên trên văn phòng, mỗi khi giờ ra chơi, trống giờ dậy hay chờ đổi lớp; để có thể thoải mái ngồi hút thuốc, uống cà phê, nước trà (mà không phải tốn phí), tán gẫu đủ thứ chuyện, nhất là về banh bóng, thể thao. Tôi lo việc thù tiếp này như thể một công tác Tâm lý chiến. Đây là thành phần luôn hậu thuẫn mạnh mẽ cho chú cháu chúng tôi, mỗi lần Hiệu trưởng hay phụ trách Công đoàn (là nữ giới, người ngoài Bắc vào) muốn kiếm chuyện và đặt vấn đề này nọ. Lũ học trò cũng e dè, không dám quậy phá gì khi ghé xuống Căng tin mua bánh kẹo hay quà vặt.
Để có thêm thu nhập cho gia đình, tôi biết có một dạo, anh Hoàng Hải Thủy đã không nề hà nhận dịch sách thuê hay viết tiểu thuyết tình cảm bình dân, nội dung lâm ly thống thiết (dĩ nhiên với một bút hiệu vô danh lạ hoắc), theo sự đặt hàng của những tay làm xuất bản sách khi đó (còn gọi là lái sách, đầu nậu), rất am hiểu nhu cầu thị trường, nhất là thị hiếu của rất đông đảo các bà các cô trong giới buôn bán. Khi các sách loại này ấn hành, anh đều có bản tặng vợ chồng tôi.
Cũng thật mừng việc anh chị được đi Hoa Kỳ định cư cuối năm 1994, chỉ sau vài năm ra tù, nhờ có sự giúp đỡ tích cực của các hội đoàn hải ngoại. Đây là lối thoát thật tốt đẹp mà anh hằng chờ đợi.
Tôi ngỡ tưởng mối tương giao với anh sẽ chấm dứt, nhưng rồi không phải như thế. Ít lâu sau ngày anh chị xuất cảnh, tôi rất bất ngờ khi nhận được một gói quà anh gửi về. Anh nói có chút ít vài món lặt vặt để gọi là nhớ nhau. Thật cảm động quá vì anh chị sang bên ấy chưa được bao lâu, còn có bao nhiêu khó khăn nơi cuộc sống mới ở xứ người.
Năm 1997, gia đình chúng tôi làm đám cưới cho con gái lớn. Biết tin, anh gửi thư về chúc mừng và gọi tôi là ông “nhạc trẻ”.
Anh em chúng tôi giữ liên lạc nhưng không được thường xuyên, vì hoàn cảnh khi đó không có nhiều phương tiện thuận lợi như sau này.
Vào khoảng cuối tháng mười một năm 2006, nghe biết gia đình tôi cũng sắp đi Hoa Kỳ định cư, qua thông tin bạn hữu tôi trao đổi trên internet bên đó, anh gọi điện thoại về vui mừng thăm hỏi. Khi biết tôi chọn nơi đến là Houston, anh càng vui hơn và hẹn gặp, vì có vợ chồng Hoàng Hoài Nguyên cùng mẹ con Kiều Giang đang sống tại đây. Mấy năm trước, các cháu cũng đã được giúp đỡ trong việc bảo lãnh để sang Hoa Kỳ đoàn tụ với bố mẹ. Riêng gia đình cháu út Hoàng Hải Triều thì chọn ở lại Việt Nam.
Tôi cứ tưởng sang đến nơi, anh em sẽ dễ dàng được gặp mặt nhau, nhưng rồi nhiều điều kiện thực tế không cho phép. (Nhưng tôi được gần gũi gia đình anh chị Duy Trác, ớ cách chỗ tôi chừng hai mươi phút lái xe). Chúng tôi chỉ chuyện trò qua điện thoại. Anh nói rất cảm động và cám ơn tôi đã đến dự đám cưới Hoàng Hải Triều rồi Hoàng Hoài Nguyên, dù không có sự hiện diện của anh chị, nhất là việc tôi kịp thời “cứu bồ” trong đám cưới Nguyên. Chả là buổi tối hôm ấy trời mưa tầm tã, người phụ trách dẫn chương trình tiệc cưới, không biết sao mà mãi chưa thấy đến (rồi vắng mặt luôn). Tới giờ khai mạc, chú rể cầu cứu ông chú, và tôi cũng thực hiện trọn vẹn mọi việc suôn sẻ tốt đẹp. Anh để tâm nhớ cả từng điều nhỏ nhặt thường tình, từ những năm tháng cũ như thế đấy.
Tôi cũng nói việc anh Nguyễn Thụy Long đã tỏ ra ân hận vì những lời qua tiếng lại có hơi nặng nề với anh, ồn ào một thời, quanh chuyện anh ấy được giải thưởng văn học do báo Khởi Hành của nhà văn Viên Linh trao tặng hồi năm 2005. Tôi cũng nói thêm là anh Hồ Nam bảo anh có hơi khắt khe, thiếu sự cảm thông cho hoàn cảnh bạn bè, nhưng anh Nguyễn Thụy Long cũng không oan uổng gì. Anh cười nhẹ và nói quên chuyện ấy đi. (Trong một bài viết khi đó, anh nhắc đến việc anh Nguyễn Thụy Long có nhận nhiều sự giúp đỡ của nhân vật Huỳnh Bá Thành, phụ trách báo Công An thành phố Sàigòn, và một chút bóng gió xa xôi. Có lẽ cũng cần nói thêm, nhân vật này cũng giúp đỡ vài văn nghệ sĩ khác nữa, không riêng gì anh Nguyễn Thụy Long).
Anh kể lại cho nghe những chuyện vui buồn, những lần được đi đây đó do bạn hữu thân tình tài trợ mọi chi phí. Có lần, một bà chủ báo mà anh cộng tác thường xuyên, đã bất ngờ “xỉ vả” anh thậm tệ vì chuyện không đâu, nhưng là chuyện nhỏ, chẳng thành vấn đề với anh.
Tôi cũng biết có nhiều người không mấy thiện cảm với anh vì ngộ nhận, hay vì cách viết của anh. Nhưng anh là người luôn được các bằng hữu và đông đảo độc giả mến mộ, yêu quý. Anh cũng có thêm nhiều độc giả mới thuộc mọi lứa tuổi sau này ở hải ngoại.
Chỉ có chị là tôi từng được gặp lại, trò chuyện thật nhiều, một lần khi chị về Việt Nam thăm con cháu, và hai lần chị sang Houston thăm gia đình cháu Nguyên, Kiều Giang. Còn với anh thì chưa một dịp nào.
Suốt thời gian ở Hoa Kỳ, tôi như đã được gặp anh khi theo dõi đọc những bài anh viết, được phổ biến trên báo in hay mạng internet, để biết anh vẫn khỏe mạnh, sức viết vẫn đầy sung lực. Thêm nữa là những lần điện thoại thăm hỏi. Tôi cũng thường thăm hỏi để biết tin tức của anh qua các cháu trong gia đình, nhất là sau ngày chị mất.
Anh đã yếu dần đi và phải cố gắng chiến đấu với tuổi già từng ngày. Các cháu có tính đến chuyện đưa anh về Houston để bố con, ông cháu gần nhau. Tôi cũng đã vội nghĩ sẽ được gặp anh nhiều hơn, thay cho những lần trước đây dự định đi thăm anh và các bạn hữu tôi ở vùng anh ở, mà bất thành.
Nhưng rồi không thể thực hiện được vì nhiều thực tế khó khăn. Tại Virginia, anh sống quen nhiều chục năm, được hưởng những phúc lợi xã hội về sinh hoạt ăn ở thật tốt. Một khi chuyển về Houston, mọi thứ phải khởi sự lại từ đầu, và chưa biết sẽ như thế nào. Các cháu thì bận rộn sinh kế, đâu có thể ở nhà để trực tiếp chăm lo cho anh được.
Anh vẫn thường tự nhận là người nghiện computer và say mê việc viết. Nhưng rồi cũng đến lúc anh phải ngừng lại tất cả, vì sức khỏe không còn cho phép được tiếp tục. Tôi biết nỗi buồn của anh đã như thế nào, khi anh ngồi gõ những trang chữ cuối cùng vào khoảng cuối 2017, để rồi sau đấy ngưng luôn, mà anh hiểu là kết thúc một đời vui với văn chương chữ nghĩa của anh.
Và cuối cùng, buổi tối khuya đêm Chủ nhật 6.12.2020 an bài ấy…
Giữa hoàn cảnh dịch bệnh, tang lễ của anh thật đơn giản và chỉ gói gọn trong vài giờ đồng hồ ngày thứ bẩy vừa mới đây. Rất ít người có thể đến chào tiễn biệt anh lần cuối.
Hôm nay, sau khi hỏa táng, xong xuôi mọi sự, anh đã trở về với thân phận bụi tro. Và rồi tro cốt anh sẽ được hòa trộn chung với tro cốt chị, đúng như nguyện ước của anh.
Hạnh phúc cho anh biết bao vì tràn ngập những thương mến yêu quý, những lưu luyến bùi ngùi, của con cháu thân tộc, của bằng hữu, và độc giả mến mộ, khi anh bỏ lại Rừng Phong, đem theo ông công tử Hà Đông, đi mãi không về nữa.
Hành trình đi ngang qua trần gian của mỗi người, khởi đầu từ tiếng khóc chào đời và kết thúc khi nhắm mắt xuôi tay. Có hành trình thật bình lặng nhẹ tênh, nhưng cũng có hành trình vô cùng rộn ràng sôi nổi, Anh Hoàng Hải Thủy đã đi trên hành trình sau.
Nói về giây phút cuối cuộc đời, Hermann Hesse ước mong: “Tôi hy vọng cái chết sẽ là hạnh phúc lớn lao, lớn lao như tình yêu được thỏa nguyện”. Anh Hoàng Hải Thủy đã có đầy đủ các điều ấy.
Trong cuộc sống, có những người mà ta đã được gặp gỡ qua tháng năm, ở nhiều khung cảnh, và từng nơi chỗ, sẽ là những cột mốc cho ta ghi nhớ luôn mãi, về những điều của riêng mình. Dẫu có khi là niềm vui, nhưng cũng có khi là một nỗi buồn.
Với tôi, anh Hoàng Hải Thủy là một người như thế, bên cạnh những hiền huynh vô cùng thân quý khác, cũng đã đi về nơi xa khuất.
Bước chân anh Hoàng Hải Thủy đang hoan vui đi vào cõi nghìn thu. Và ở đó có nụ cười của chị Alice đợi chờ sẵn.
Kính biệt anh.
Ngọc Tự
(Richmond, Fort Bend Texas)
(14.12.2020)
Tôi từ trại tị nạn đặt chân đến đất tự do ngày đầu tiên, trong túi không có một xu, mặt mày thì ngơ ngáo như hai Lúa lần đầu lên Sè Gòn.
Có một đồng hương đến thăm chơi với người mới đến ở nhà hội thiện nguyện, thấy tôi tội nghiệp nên chở đi uống cà phê. Kéo ghế định ngồi xuống, thì tôi thấy một tờ báo không biết ai đánh rơi dưới chân ghế nên nhặt lên vừa uống cà phê vừa đọc cái trang đang lật trước mặt.
Trong một đoạn của bài viết, tác giả Công Tử Hà Đông bày tỏ nỗi lòng:” có những đêm mưa ở Rừng Phong tôi không ngủ được vì nhớ Thủ đô Sàigòn thân yêu của tôi”.
Vừa đến xứ lạ quê người mà được đọc câu đó làm tôi cảm động đến ứa lệ!
Xin cầu nguyện cho Công Tử Hà Đông được giấc ngủ yên bình!
Ông Hoàng Hải Thủy sang Mỹ vào năm 1994, rừng Phong ám chỉ nơi ông ta cư ngụ ở Virgina. Riêng anh thì vượt biên bằng đường biển sang Thái Lan. Nếu không có gì bất tiện thì anh có thể cho biết bằng cách nào anh sang Mỹ sau khi trại tỵ nạn đã đóng cửa hay không?
Trời đất! Ông thầy nắm vững lý lịch của em hết chối cãi luôn.
Thưa đúng vậy. Tôi đến định cư ở Mỹ năm 1986 từ trại tỵ nạn Thái Lan, tức tới trước ông CTHĐ đến 8 năm.
Thế sao lại có chuyện tréo ngoe ở trên?
Năm 1997, tôi cùng một người bạn đến thăm vài ba người Việt hiếm hoi được bảo lãnh đến muộn sau nhiều năm sống vất vả từ làng tỵ nạn ở Philippines. Nhân vật “Tôi” mà tôi tự ví trong câu chuyện kể trên là một người từ làng tỵ nạn Philipines đó, anh ấy là một người rất vui tính và từ “hai Lúa” là do chính sự hóm hỉnh của anh tự ví mình, nhưng anh ta đã phải ứa lệ khi đọc được câu nhớ Sàigòn của công tử Hà Đông trong quán cà phê ở Mỹ ngày đầu tiên.
Từ hôm đó, chúng tôi trở thành bạn thân, thường phone thăm hỏi nhau và thường đọc và kể cho nhau nghe về những bài viết của ông Hoàng Hải Thuỷ.
Nhưng không may anh ấy đã qua đời trong một tai nạn lưu thông năm 2016, cho nên khi hay tin CTHĐ qua đời tôi tự kể lại một kỷ niệm của người bạn thân thương của mình!
À…cứ tưởng anh cho tôi xem…Như chuyện thần tiên. Cảm ơn.
….
Chuyện kỳ diệu là hôm nay, liêu lạc ở Rừng Phong, Xứ Tình Nhân, Kỳ Hoa Đất Trích, 14 năm sau buổi sáng đầu Xuân tôi đi ra khỏi những bức tường bao quanh khu nhà tù Z30 A ở Xuân Lộc, Đồng Nai, khi hồi tưởng những ngày tù đày, những đêm dài nằm như xác chết trong sà lim, nghe tiếng thời gian chậm bước đi, những nhớ thương , những tuyệt vọng, những hy vọng, những mong ước, những khẩn cầu, tôi thấy trái tim tôi ấm lại.
Tôi không chút ân hận hay buồn phiền vì tôi đã phải sống hai mươi mùa lá rụng trong thành phố Sài gòn thương yêu của tôi, trong hai mươi năm có tám năm tôi sống quanh quẩn trong những nhà tù cộng sản.
Tôi thấy những ngày tù đày đó của tôi có ý nghĩa, chúng cho tôi thấy giá trị con người của tôi. Nhờ tù đày, nhờ tai họa, tôi được biết con người tôi không hay, không bảnh hơn ai, nhưng con người của tôi không đến nỗi hèn hạ quá.
Với tư cách là người tù nạn nhân của Việt Cộng, tôi không được ai khen nhưng tôi không bị ai chê, ai khinh , ai chửi, vợ con tôi không bị xấu hổ vì tôi. Được như thế là tôi mừng rồi.
Tôi ra khỏi Thánh Thất Chí Hòa một ngày đầu Xuân, tôi đến Trại Lao Cải Z30 A một ngày đầu Xuân, tôi ra khỏi Trại Lao Cải Z30 A một ngày đầu Xuân.
Lúc ấy 9 giờ sáng, anh em tù đi làm hết, trại vắng tanh, Trí Siêu Lê Mạnh That đưa tiễn tôi đến cổng trại.
Hôm nay , một ngày đầu Xuân, liêu lạc xứ người, cách quê hương hai biển lớn, nhìn về đông , trông về tây, chỉ thấy biển xanh, mây trắng, tôi gửi Tình Yêu Thương của tôi về Sài gòn, tôi gửi tình cảm mến của tôi về những người bạn đã chia cay, xẻ đắng với tôi trong những ngày đêm tôi tù tội, những người bạn tù đã thương xót tôi, bảo vệ tôi, an ủi tôi, nâng đỡ tôi trong những giây phút tôi tuyệt vọng.
Tôi biết ơn các bạn tù Lê Văn Bảy, Lê Vĩnh Thành, Lâm Tới, Lê văn Cường, Lê Mạnh That…
Tôi nhớ những sà lim, cai tù Bắc Cộng gọi là biệt giam, số 15, số 10, những phòng tù tập thể số 6, số 7 Nhà Tù Phan Đăng Lưu, Phòng Tù Tập Thể số 10 , lầu 3, khu ED Nhà Tù Chí Hòa, tôi nhớ những người anh, những người bạn đã cùng tôi vào nhà tù cộng sản nhưng không cùng tôi đi ra : anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, bạn tôi Dương Hùng Cường.
Trích trong bài viết Mùa Xuân Trên Đỉnh Chứa Chan
Tác Gia : Hoàng Hải Thủy, Saigon nhỏ giai phẩm Xuân Ất Dậu 2005
…..
Năm năm cứ đến những ngày gần Tết tôi lại bận bịu viết những bài gọi là bài Xuân cho những số báo Tết. Tôi làm công việc viết bài Xuân, bài Tết thường xuyên từ năm 1956.
Việc làm của tôi đột ngột bị ngưng ngang trong năm 1975. Từ năm 1975 đến năm 1994 _ hai mươi mùa Xuân vàng võ, thảm thê, tôi sống ở Saigon, thành phố thương yêu của tôi mà tôi đã không giữ được _ những ngày gần Tết tôi không có hạnh phúc được viết bài Xuân, được nằm khểnh đọc bài viết của tôi đăng sáng sủa, đẹp đẽ trên những trang báo Xuân.
Trong hai mươi năm sống tối tăm ở Saigon, tôi đã tưởng tôi sẽ chẳng còn bao giờ được viết bài Xuân nữa trong đời.
Thế rồi bánh xe lãng tử đưa tôi một chiều thu muộn năm 1994 đến Rừng Phong lòng vòng Hoa Thịnh Đốn, bang Virginia, Đất Tình Nhân, xứ Kỳ Hoa, Tây Vực.
Từ đấy, năm năm cứ đến những ngày gần Tết, tôi lại được hưởng hạnh phúc viết bài Xuân.
Năm Gà Rù đến cửa, buổi sáng cuối năm ngồi ngắm Rừng Phong mờ sương qua khung cửa kính, nghĩ chuyện Gà, tôi cảm khái làm bài thơ :
Năm năm cứ đến ngày gần Tết
Lại viết bài Xuân đăng báo Xuân
Chẳng thấy Xuân đâu, chưa thấy Tết
Đã rộn bài Xuân, loạn báo Xuân
Mấy chục mùa Xuân, mấy chục Tết
Năm Gà Xuân, năm Chuột cũng Xuân
Tha hương không có Ba Ngày Tết
Mít Đặc hè nhau vẫn cứ Xuân
Nước mất vui gì Xuân với Tết!
Nhà tan buồn mấy Tết cùng Xuân !
Hoài mộng quê hương thời có Tết
Ngậm ngùi tưởng nhớ viết thương Xuân
Xuân sang chẳng lẽ làm lơ Tết
Đời chẳng còn Xuân vẫn phải Xuân !
Thôi thì gắng viết dăm bài Tết
Cho Tình Nhân đọc chuyện Tình Xuân.
Em ơi…Anh dành những dòng này để chúc Tết em…
Chúc Em năm mới muôn vàn
Cây Tương Tư nở bạt ngàn hoa yêu
Thúc Kỳ Tâm nhớ Thúy Kiều
Thúy Kiều Xuân đến sớm chiều nhớ ai ?
Tóc thề còn chấm ngang vai ?
Này lời non nước, nầy lời sắc son
Dẫu rằng sông cạn đá mòn
Con tằm còn sống vẫn còn vương tơ.
Yêu Em biết đến bao giờ !
Trích trong bài viết NĂM GÀ TẾT ĐẾN, Tác Giả : CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG, Saigon nhỏ, giai phẩm Xuân Ất Dậu 2005
Ngày trời sập ở miền Nam, tôi chỉ là một thiếu niên 16 tuổi. Ai cũng biết đó là độ tuổi đẹp nhất với bao nhiêu ước mộng xây đắp trong đời. Thế nhưng, tất cả bỗng sụp đổ tan tành dưới lằn xích xe tăng của quân Giải Phóng. Không lâu sau ngày trời sập, người miền Nam ai cũng bừng tỉnh để chỉ thấy bọn MTGP thật ra chỉ là một bọn thổ phỉ. Chỉ mới cướp được miền Nam không lâu mà bọn thổ phỉ này phát động không biết bao nhiêu là chiến dịch nhằm phá hoại kinh tế miền Nam và tiêu diệt những di sản của VNCH. Kinh hoàng nhất là chính sách kinh tế mới và truy diệt “văn hoá đồi truỵ phản động” mà bọn thổ phỉ đã phát động khắp miền Nam mà trọng điểm là Sài gòn. Ai từng sống ở Sài gòn vào những ngày ấy chắc không bao giờ quên những biến cố này.
May thay, các nhà sách và nhà xuất bản ở Sài gòn vừa nghe tin đã nhanh tay bán tháo, bán đổ tất cả các sách báo còn sót lại với giá rẻ mạt. Những khu chợ trời và những sạp báo vỉa hè rải rác khắp Sài gòn thuở ấy chỗ nào cũng thấy bán đầy những sách “phản động” này. Sạp báo không đủ chỗ thì họ giăng bạt xuống vỉa hè và đổ sách lên thành “bãi” cho mọi người dẫm đạp nhau mà lựa. “Bãi” nào cũng đông nghẹt người chen chúc hỗn loạn. Ai nhanh chân, nhanh tay và mạnh bạo thì quơ đúng những sách mình muốn. Nhưng dẫu người đến chậm đến đâu, thế nào cũng mang về một vài sách báo vừa ý với họ. Bởi vì, TẤT CẢ CÁC SÁCH XUẤT BẢN Ở MIỀN NAM Ỏ THỜI ĐIỂM ĐÓ ĐỀU CÓ GIÁ TRỊ, NGAY CẢ NHỮNG TIỂU THUYẾT “NHẢM NHÍ, RẺ TIỀN” NHƯ NHỮNG TRUYỆN CỦA BÀ TÙNG LONG. Có một điều khá ấn tượng làm tôi nhớ mãi đến ngày hôm nay . Đó là dẫu hỗn loạn đến đâu, không biết ai là ai, nhưng hầu như không có tình trạng người mua sách lợi dụng cảnh nước đục thả câu. Tôi chứng kiến cảnh những anh, có vẻ là sinh viên, lôi ra vài cuốn sách và đứng khá xa người bán hàng để hỏi ý kiến nhau. Khi đồng ý thì đến nhờ những người đứng gần người bán nhất để hỏi giá, hỏi giá xong là trả tiền bằng cách chuyền tiền và sách không cần mua cho người bán hàng qua tay những người đang đứng mua. Sau này tôi mới hiểu là văn hoá miền Nam thuở đó dầu sao cũng đã khá cao cho nên ai cũng qúi sách, và kinh tế VNCH ngay thời điểm đó cũng vẫn tương đối còn nguyên vẹn. Người bán hối hả, người mua cũng hối hả. Phải làm cho nhanh kẻo bị “nó” hốt là đi cải tạo mút mùa.
Trong cơn hấp hối ấy của nền văn hoá VNCH, tôi cũng nhanh tay đập heo đất lấy tiền, tất cả gom được gần 400 đ (sở dĩ số tiền “nhiều” là vì hồi đó miền Nam mới ăn tết xong, tiền lì xì để dành sau tết vẫn còn nằm đó). Rồi hai anh em tôi, tôi và ông anh, đèo nhau lên xe đạp đi rảo một vòng chợ cũ Hàm Nghi, ra góc đường Pasteur- Lê Lợi, xuống đường Hai Bà Trưng Tân Định và thả về đường Trịnh Hoài Đức hông Lăng Ông Bà Chiểu. Tôi tin rằng tôi có cái duyên văn hoá với Hoàng Hải Thuỷ nên trong những “bãi” bán sách hỗn loạn ấy, bãi nào tôi cũng lượm được một vài cuốn của ông mà tôi vẫn còn nhớ: Như chuyện thần tiên, Tìm em nơi thiên đường, Đỉnh gió hú (1 và 2), Tiếng cười trong đêm tối, Trở về tội ác, Trong vòng tay du đãng. Cuốn nào cũng rẻ bèo, bán mà như là cho không! Thí dụ: hai cuốn Đỉnh gió hú 1 và 2, mỗi cuốn hình như đề giá là 250 đ, tôi mua cả hai cuốn là 40 đ, sau khi đã “mặc cả” bớt được 10 đ. Anh tôi thì ôm cả một lô sách truyên dịch: Ba chàng ngự lâm pháo thủ, Doctor Zhivago… Miền Nam mà đừng bị “giải phóng” thì chắc cũng còn lâu chung tôi mới mua nổi những sách này!
Những phóng tác của Hoàng Hải Thuỷ đã đem tôi về những thiên đường đầy hoa mộng tuổi mới lớn. Vâng, tôi cần những thiên đường ảo này vì chúng giúp tôi quên đi cái thực tế địa ngục đang thành hình quanh tôi dưới bàn tay bọn thổ phỉ. Trong cơn mộng ảo giữa những “thiên đường” ấy của HHT, tôi vẫn hằng mong ước sau này có cơ hội được đọc những nguyên tác này bằng ngôn ngữ gốc.
Ước mơ của tôi thành hình một khi tôi qua đến bến bờ tự do. Tôi ráng tìm để đọc lại những tác phẩm mà Hoàng Hải Thủy đã phóng tác. Chỉ đọc hai nguyên tác thôi mà tôi đã thấy thất vọng, không buồn đọc thêm nữa. Tôi thấy cách hành văn (tiếng Anh) trong nguyên tác quả nó không “bay bướm mềm mại” như cách hành văn của HHT trong những truyện mà ông đã phóng tác. Hai truyện điển hình nhất là “Như chuyện thần tiên” (Scorpion Reef, Charles Williams) và Đỉnh Gió Hú (Wuthering Heights- Emily Bronte). Về điều này, nó cũng tương tự như ai đã đọc “Bố Già” do Ngọc Thứ Lang dịch và so bản dịch với nguyên tác “Godfather” của Mario Puzo thì tôi dám chắc đa phần ai cũng đồng ý là bản dịch đọc hay hơn nguyên tác nhiều!
Những thiên đường ảo năm xưa do HHT ban tặng cho tôi, và cho không ít thanh thiếu niên miền Nam cùng thời với tôi, vẫn còn nằm trong tâm khảm chúng tôi, không bao giờ phai mờ, dù tuổi đời bản thân tôi đã hơn sáu bó.
Nhưng nay thì HHT thi đã ra đi vĩnh viễn.
Tôi tin chắc là ông sẽ được về đến THIÊN ĐƯỜNG thật, nơi có Chúa Ba Ngôi và hai hàng đạo binh Thiên Thần đang giang tay đón chào. Đấng Quan Phòng ắt cũng đã thấy, Hoàng Hải Thuỷ dù sống trong địa ngục nhưng vẫn có khả năng và bản lãnh để ban phát những thiên đường nho nhỏ cho bọn nhóc chúng tôi bám víu và sống qua ngày. Hàng vạn người trong lứa tuổi với tôi, những người đã từng nhận những thiên đường nhỏ do ông ban phát, cùng góp lời cầu nguyện cho ông được lên Thiên Đàng, không lẽ Chúa không nhậm lời?
Cầu chúc Công Tử Hà Đông yên nghỉ nơi coĩ vĩnh hằng .
Tôi thích HHT qua bài viết sau đăng ở trang “xoathantuong”
Minh Râu Hà Nội, Hoàng Hải Thủy
Từ năm 2000, văn huê và lòng thòng là “Năm thứ nhất của cái gọi là Thế Kỷ Hai Mươi Mốt”, toàn dân Việt Nam, 80 triệu 569.321 mạng, nam, phụ, lão, ấu, từ em nhỏ lên ba đến cụ già chín bó, sống trong nước, sống ở nước ngoài, đều biết Hồ chí Minh, tên cúng cháo lá đa, tên trong Sổ Ðịa Ngục là Nguyễn Tất Thành, là người lưu manh, gian ác, giả dối, đá cá, lăn dưa thuộc loại Ðệ Nhất Cao Thủ Ma Giáo Việt Nam. Từ những năm 1945, 1946…., nhân vật Hồ chí Minh được bọn đảng viên Cộng Sản xứ Bắc Cộng suy tôn như ông Thánh Sống, để rồi sau khi Ðế quốc Liên Xô tan rã không còn mảnh vụn, Chủ Nghĩa Cộng Sản Khoa Học cũng như Chủ Nghĩa Cộng Sản Dã Man, rách hơn cái mền Sakymen, những kho hồ sơ mật từ bao năm được bọn Cộng Nga úp mu giữ kín trong cái gọi là Văn Khố Mật Ðiện Kemlanh, thành phố Mốt Cu, nơi được bọn đảng viên cộng sản trên khắp thế giới coi là Kinh Ðô, là Ðất Thánh của chúng, được khui ra tùm lum tà la. Và thế là những tội ác ghê rợn, những thú tính, những dâm tính, những ác tính, những thói ma, tật quỉ của bọn lãnh tụ Cộng sản bị phơi bầy ra ánh đèn, ánh điện, ánh nắng, gọi chung là ánh sáng, người thế giới ghê tởm quá đỗi trước những tội ác mà bọn Quỷ Ðỏ đã làm trong hơn một nửa thế kỷ chúng hoành hành làm tanh banh thế giới.
Riêng Hồ chí Minh, ngoài cái tội lão phóng tay man dã giết người Việt Nam không thể nói chung chung “bọn Việt Cộng giết người Việt”, phải gọi đích danh thủ phạm “Nguyễn Tất Thành Hồ chí Minh giết người Việt”, lão là chính danh thủ phạm “Dưới cờ gươm tuốt nắp ra .. Chính danh thủ phạm tên là Hồ Meo” theo lý thuyết Ðảng Cộng của lão, lão chủ trương Ðảng phải giết người Việt, lão dậy và ra lệnh cho bọn đảng viên đàn em lão giết người Việt. Và lão, cùng bọn đảng viên cộng sản Việt đàn em của lão, đã thực hiện một cuộc người Việt giết người Việt tàn ác nhất trong lịch sử dân Việt….
Ai cũng có một đời sống riêng, và một sự nghiệp riêng.
Với Công Từ Hà Đông Hoàng Hải Thủy thì đời sống riêng và sự nghiệp cùng hòa quyện với nhau. Tên con gái là Kiều Giang, tên một nhân vật nữ trong một truyện phóng tác rất nổi tiếng của Ông.
Có thể nói, Ông sống rất chân thành, không giả trá, không màu mè.
Khi đầy đủ, Ông là một công tử chính hiệu.
Khoảng thời gian khốn khó, tự xưng mình là “con bà Cả Đọi”, Ông ngồi chờ từng thùng quà cứu viện từ ngoại quốc gửi về.
Trong những bài viết Ông trả lời Trần Văn Thủy, một đạo diễn cs , người ta có thể thấy một người Việt Nam hừng hực lòng yêu nước, không chịu được sự giả trá của cs.
Ông viết rõ ràng cảm nhận của Ông trong những bài viết dưới tiêu đề” Viết Từ Rừng Phong” (có thể đọc online ở VNThuQuan).
Tôi chưa từng được gặp Ông. Ở Sài Gòn, tôi say mê đọc Kiều Giang, Định Mệnh Đã An Bài, Nổ Như Tạc Đạn…Rồi tôi cười khoái trá với những bài viết ngắn trào phiếm châm biếm của Công Từ Hà Đông ở tuần báo Con Ong . Lưu lạc nơi đất khách, tôi ấm lòng khi đọc loạt bài Ông trả lời Trần Văn Thủy, cảm tưởng như đã gặp lại cố nhân, người thấu hiểu và cùng một cảm nhận như tôi.
Vài năm nay, không thấy bài viết mới nào là biết Ông đã yếu. Nhưng bây giờ nghe tin Ông đã rong chơi nơi khác, lòng tôi bùi ngùi.
Ông ra đi nhẹ nhàng thanh thản vì Ông sống một đời sống chân thành, làm những việc Ông yêu thích, sống với người Ông yêu.
Cầu chúc Ông hạnh phúc với người yêu nơi cõi vĩnh hằng.
Một độc giả của Hoàng Hải Thủy.
Vĩnh biệt Công Tử Hà Đông!