Số vàng để lại
Đêm hôm đó, Thiệu không mang theo một tí vàng nào. Chuyện đó (người ta nói Thiệu mang vàng đi) là chuyện ba láp. Đương nhiên là ông không mang. Không một ai có đầu óc tỉnh táo mà lại bỏ vàng trong va li kêu leng keng như vậy, trời ạ. Tôi quen một người Việt mang vàng đi và tôi biết số vàng này được nén chặt và bọc lại trong lớp quần áo có giây thun hoặc băng keo cột lại. Chẳng ai muốn thứ này kêu lục cục trong túi hành lý.
Sự thực là kho dự trữ vàng của miền Nam nằm yên tại chỗ và vẫn còn đó khi đạo quân miền Bắc vào. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam quản lý số vàng đó, được định giá từ 18 đến 20 triệu đô la. Cái giá đó là tính theo giá một ounce vàng là 35 đô la. Nhưng khi Nixon đánh tụt giá đồng đô la vào năm 1971 thì 75 đô la mới mua được một ounce. Như vậy ta có thể nói số vàng dự trữ tại thời điểm tháng Tư 75 là gấp ba hoặc bốn lần con số nói khi trước.
Thời kỳ đó, uy tín về giao dịch tài chính quốc tế của Nam Việt Nam hầu như là con số không, (rất khó vay mượn ai) giữa lúc Quốc hội Mỹ rề rà trong chuyện viện trợ, nếu không muốn nói là bác bỏ cho xong.
Như thường lệ, mỗi khi cần có ý kiến táo bạo, thì Đại sứ Martin có ngay. Ông đề nghị Nam Việt Nam gửi số vàng này cho cơ quan Dự Trữ Liên bang Hoa Kỳ (FED-tương đương Ngân hàng Trung ương Mỹ) dùng đó làm thế chấp để mua chịu vũ khí. Thiệu chấp nhận ý kiến này.
Khi đó, hãng máy bay chở hàng Basel Air, công ty con của hãng hàng không Thụy Sĩ Swiss Air, tình cờ có một máy bay ở Sài Gòn. Chính phủ Việt Nam nói với Basel Air, “Chúng tôi định gửi số vàng này sang cơ quan Dự Trữ Liên bang Hoa Kỳ, các bạn có thể chở theo kiểu hàng hóa thương mại thông thường được không?” Phía Thụy Sĩ suy nghĩ một hai ngày rồi nói không. Lý do là bảo hiểm, họ nói họ không có cách chi mua được bảo hiểm để có thể chở 70 triệu đô la vàng ra khỏi Sài Gòn.
Chính phủ Việt Nam bèn quay sang Không quân Mỹ. Câu chuyện được mang ra bàn ở Hội đồng An ninh Quốc gia. Không quân Mỹ dễ dàng chở một tấn rưỡi vàng này đi chỗ khác, nhưng không thể mua bảo hiểm khi chở trên một máy bay quân sự, chấm hết.
Cục than nóng này mới chuyền sang tay các luật gia của Bộ Ngoại giao. Suốt thời gian đó, số vàng nằm yên tại Ngân hàng Quốc gia ở Sài Gòn. Làm sao mua bảo hiểm cho chuyến hàng nếu dùng máy bay quân sự? Đề tài này giúp các vị luật gia của Bộ Ngoại giao có việc làm trong suốt mấy ngày.
Trong khi đó, Thiệu từ chức, miền Nam có nhóm lãnh đạo mới. Ông Hương hôm trước nói gửi đi, hôm sau lại nói không gửi. Cuối cùng ông nghe theo Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, bạn của Denny Ellerman (tiến sĩ, tùy viên kinh tế tại tòa đại sứ). Hảo kết luận rằng cách hay nhất là để số vàng lại bởi vì tình hình bây giờ khác với tình hình lúc Martin đề nghị; hơn nữa, nếu có nhận thêm được viện trợ quân sự của Mỹ nhờ số vàng này thì số viện trợ đó cũng không đến kịp lúc để giúp giải quyết vấn đề, và uy tín của miền Nam sẽ khá hơn nếu giữ số vàng lại trong nước.
Rút cục số vàng vẫn nằm lại Sài Gòn, Thiệu không mang đi chút nào và trong hành lý ông ta cũng không có vàng. (Các nhà sử học sau này có nhiệm vụ “làm rõ” xem số vàng đó cuối cùng rơi vào tay ai, đã được chia chác như thế nào giữa những người trong “bên thắng cuộc”).
Đêm giã từ
Trời tối đen như mực khi chúng tôi ra đến thân máy bay. Chiếc phi cơ chỉ bật những đèn nhỏ. Các chiếc xe của chúng tôi cũng bật đèn nhỏ để tiến đến phi cơ chứ không bật đèn lớn. Đó là một chiếc cánh quạt DC-6, loại cánh quạt cuối cùng của Mỹ. Máy bay đã từng được sử dụng cho những dịp vui chơi, tôi đã từng đi trên đó cho nên tôi biết nó hiện hữu.
Khi Đại sứ Ellsworth Bunker (trước Martin, báo chí Việt Nam đặt cho biệt danh Ông Già Tủ Lạnh) làm đám cưới với bà Carol Lace, đại sứ ở Nepal, thì Bunker lúc đó ở lớp tuổi 70; trong một dịp gặp Tổng thống Johnson, Bunker than, “Thưa tổng thống, tôi sắp gặp một vấn đề. Tôi không muốn bỏ chức đại sứ ở Sài Gòn, còn Carol thuộc ngạch FSO (ngoại giao chuyên nghiệp) được bổ nhiệm làm đại sứ, một chuyện rất hiếm cho phụ nữ, Carol không muốn bỏ qua cơ hội này. Tổng thống có kế gì giúp chúng tôi không?”
Tổng thống Johnson trả lời, “Lạy Chúa tôi, nếu một người ở độ tuổi ông vẫn còn muốn gần gủi thường xuyên với một bà vợ mới thì tôi sẽ tìm cho ông một chiếc máy bay.” Thế là Johnson moi ở đâu ra chiếc máy bay này và giao cho Bunker, và Bunker dùng nó để bay đi Katmandu.
Có lần ông bảo tôi đi theo. Máy bay rất đẹp, bên trong trang trí đầy đủ, nhưng bay rất chậm, cánh quạt mà. Chiếc đó là của Không quân và khi hai vợ chồng đại sứ không còn ở Nepal nữa, máy bay đưa về đậu tại Thái Lan để các quan lớn Không quân dùng.
Tôi nhớ đến nó và bảo, “Đúng là chiếc mà chúng ta sẽ dùng vì nếu dùng máy bay phản lực sẽ tạo nhiều hỗn loạn.”
Buổi tiếp tân quan trọng cuối cùng mà tôi đến dự là cái đêm hôm đó. Nó được tổ chức tại tư thất của đại sứ Ba Lan, nhân tiện để ra mắt tân trưởng phòng Chính trị của đại sứ quán Ba Lan cho giới ngoại giao có mặt ở Sài Gòn. Mọi người đều đến, tất cả đại sứ còn ở lại Sài Gòn đều có mặt.
Người trưởng phòng mới nhận nhiệm sở nói rằng ông ta nóng lòng muốn gặp tôi, dĩ nhiên là tình hình bây giờ đã khác trước. Ông ta muốn biết quan điểm của tôi về tình hình, chúng tôi hẹn nhau ăn trưa một tuần nữa, tức là ngày 1 tháng 5. Ông ta nói trước tiên ông phải giải quyết vài chuyện và một tuần nữa sẽ ăn trưa với tôi. Câu chuyện dừng lại ở đó, dù tôi vẫn hoàn toàn mong đợi đến ngày 1 tháng 5 có dịp gặp người bạn đồng nghiệp Ba Lan, ngoài những chuyện khác.
Đại sứ Martin không thích đi dự mấy cái màn tiếp tân này, nhưng tối hôm đó, trước tình trạng thành phố lên cơn sốt và nhiều chuyện khác, ông nói, “Tôi cũng sẽ đi dự buổi tiếp tân, nhưng chúng ta sẽ đi riêng,” do đó, chúng tôi đổi xe với nhau ở phi trường.
Trước khi dự tiếp tân, tôi ghé văn phòng để gửi một công điện (về Washington) — tôi viết ra trước và đọc qua máy vô tuyến, sau khi nói mật mã mà tôi và nhân viên của tôi ở đầu kia đã thỏa thuận. Đại khái đó là cái ngày mà tôi tiễn Thiệu ra khỏi Việt Nam.
Ngày ra đi
Vào cái ngày tôi rời Sài Gòn, tôi rất chán đời đến độ gần như muốn ngã quỵ.
Màn cuối của vở kịch mở ra vào thứ Hai. Dương Văn Minh lên nhậm chức đêm hôm đó, và ngay khi ông dứt bài diễn văn nhậm chức, Sài Gòn đổ trận mưa to. Nước mưa tuôn xối xả. Hơi sớm vì chúng tôi chưa bước vào mùa mưa.
Thế rồi xảy ra vụ máy bay cải tiến (máy bay A-37 trước đây dùng để huấn luyện, sau được thêm vài bộ phận để biến thành máy bay tác chiến.) Như các bạn biết đấy, đó là những máy bay Mỹ có gắn thêm hai bình xăng phụ 50 ga-lông, lái bởi các phi công do Bắc Việt không chế, họ bỏ bom xuống Tân Sơn Nhất (nhóm Nguyễn Thành Trung.) Lúc đó, chúng tôi vẫn còn ở trong văn phòng, dù khi ấy vào khoảng 7 giờ. Chúng tôi vẫn còn ở văn phòng vì thứ nhất, giờ đó ở Sài Gòn chẳng có nhiều chuyện phải làm, thứ hai vì giờ giấc 12 tiếng khác nhau giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, buổi tối ở Sài Gòn là buổi sáng ở Washington. Do đó, chúng tôi muốn gửi tối đa các thông tin cho Washington trước khi bên đó người ta bắt đầu làm việc.
Trở lại chuyện chúng tôi đang ở văn phòng thì nghe tiếng nổ, tôi bèn chui xuống gầm bàn, tôi còn nhớ rõ cái bàn mà tôi chui xuống là ở trong phòng của trưởng ban báo cáo. Nhân viên trong ban có nhiệm vụ soạn các báo cáo tình báo trước khi chuyển đi bằng máy điện báo. Chúng tôi rất hãnh diện về các báo cáo này bởi vì mặc dù trong tình hình dầu sôi lửa bỏng, chúng tôi vẫn biên tập, chỉnh sửa báo cáo rất chính xác theo tiếng Anh, giống như dân làm báo giỏi.
Nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều báo cáo viên cũng chui xuống gầm bàn như tôi, và một hình ảnh mà tôi không bao giờ quên, đó là có một nữ báo cáo viên xinh xắn, dù ở dưới gầm bàn, cũng cố với tay lấy chiếc máy đánh chữ xuồng để gõ tiếp, nội dung như sau, “Nơi nhận: Washington. Nơi gửi: Sài Gòn. Báo cáo tình hình lúc 19 giờ địa phương. Nhiều tiếng nổ không rõ xuất xứ rung chuyển khu trung tâm thành phố. Mặc dù vẫn còn nổ chung quanh chúng tôi, không ai biết chuyện gì xảy ra.”
Chẳng mấy lúc, mọi chuyện đã rõ, chúng tôi xem đó là cách trả lời của Bắc Việt cho bài diễn văn nhậm chức của Minh.
Ông ta nói sẽ tiếp tục chiến đấu và nói toàn những chuyện ngu xuẩn mà trước đó một tháng ông không hề nói. Theo tôi, đây là cách minh họa thực tế của Peter Principle (Nguyên lý Peter, nguyên lý này cho rằng một người có thể xuất chúng trong một ngành nghề nào đó, có thể leo tên tột đình, nhưng nếu cứ tưởng người đó giỏi, đưa sang làm ngành nghề khác cũng xuất sắc thì người đó làm hỏng bét. Ý muốn nói Minh tốt về quân sự nhưng dốt về chính trị.) Người leo lên đỉnh cao của sự bất tài.
Dù có vụ bỏ bom, mọi chuyện ở Sài Gòn vẫn chạy tốt vào thời điểm đó. Quả là một nghịch lý theo cái nghĩa từ suốt tuần qua, mọi việc đều chạy đều. Điện lực tốt, điện thoại tốt, nguồn cung cấp thực phẩm cũng OK, có lẽ ngoại trừ thiếu một chút xà-lách.
Tối đó tôi đi ngủ trễ nhưng độ bốn rưỡi lại thức giấc bởi những tiếng nổ nữa. Nghe như tiếng đạn đại bác đang tới. Tôi gọi cho nhân viên trực của tôi ở tòa đại sứ. Ta cần phân biệt nhân viên trực tại đó. Có nhân viên trực của tòa đại sứ ngoài lính gác của Thủy quân lục chiến, và có nhân viên trực của CIA. Theo truyền thống, nhất là tại Sài Gòn, CIA chúng tôi có hai nhân viên trực lúc nào cũng phải có mặt ở tòa đại sứ. Không chỉ khi nào cần mới có mặt, mà luôn luôn ở bên trong tòa nhà.
Tôi nghĩ hợp lý nhất là gọi người trực của tôi. Tôi hỏi, “Cho tôi biết những gì anh biết.” Anh trả lời không biết gì nhiều vào lúc này, chỉ biết là có pháo kích vào Tân Sơn Nhất. Một Thủy quân lục chiến đã lên trên sân thượng và từ đó báo cáo thấy nhiều đốm cháy, anh ta đã hỏi bạn đồng ngũ ở DAO (nằm gần Tân Sơn Nhất) nhưng trời vẫn còn tối, họ chẳng biết gì dứt khoát. Nhưng điểm đầu tiên được biết là có thiệt hại đáng kể và có hai Thủy quân lục chiến chết.
Tôi nói, “Thôi được, tôi thấy có vẻ khá nặng đấy. Cũng may là có anh trực ở đây.” Hóa ra anh ta trưởng ban tài vụ của tôi. Tôi bèn ra lệnh, “Hãy làm sẵn các bao thư khởi hành.”
Bao thư khởi hành là những phong bì trong đó có để sẵn những dặn dò hoặc một số điện thoại của tòa đại sứ hay cơ quan khác của Mỹ ở Đông Á. Mỗi bao thư còn có nhét 1.500 đô la Mỹ và một số loại tiền nước khác mà chúng tôi có trong tay. Mục đích phát cho nhân viên các bao thư này để khi họ ra được bên ngoài và bị mất liên lạc, họ cũng có thể tự xoay sở đến được nơi nào đó an toàn.
“Anh bắt đầu chuẩn bị bao thư là vừa,” tôi nói, và cho anh biết tôi sẽ tới tòa đại sứ.
Tôi là người đầu tiên tới nơi. Bấy giờ Thủy quân lục chiến đã có thêm thông tin từ DAO. Dựa vào đó, tôi nghĩ cần huy động mọi người. Tôi gọi ông đại sứ và nói, “Tôi rất có lỗi đã gọi ông vào lúc sáng sớm như thế này — có lẽ ông chỉ mới ngủ được hơn ba tiếng — tôi rất có lỗi đã gọi ông nhưng tôi nghĩ ông phải đến.” Ông trả lời sẽ đến.
Tòa đại sứ có thủ tục là nếu ai gọi cho mình thì mình phải gọi tiếp cho bốn người khác và cứ thế mà tiếp tục. Chúng tôi cho áp dụng thủ tục này.
Đại sứ trông rất hốc hác sáng sớm hôm đó. Hốc hác theo nghĩa đen hẳn hòi. Ông ta bị viêm phế quản khá nặng, và đến khi đưa ông ra được chiến hạm, bác sĩ cho biết ông bị viêm phổi. Giọng ông khàn khàn, nói năng rất khó. Ông có thể thì thầm, nhưng cũng khó nghe. Nhưng ông tỉnh táo 100 phần trăm, có điều là nói không được.
Khi Kissinger gọi, ông khó làm Kissinger hiểu được, nhất là đường dây điện thoại cũng không tốt, vì thế ông cứ thì thầm để tôi lập lại cho Kissinger. Nhưng ông cũng không nghe rõ những gì Kissinger nói.
Ngày hôm đó bắt đầu như vậy, và tình trạng này kéo dài suốt ngày.
Thế rồi ông đại sứ đòi ra Tân Sân Nhứt, bởi vì cái tính của ông là như vậy. Dù ông có vài ông tướng Không quân ở đó, nhưng khi họ báo cáo với ông là máy bay có thể đáp, ông vẫn không tin. Ông muốn thấy tận mắt.
Trời đã sáng tỏ, các phi công của Hạm đội 7 đã sẵn sàng, các trực thăng đã bơm đầy xăng, mọi thứ đã lên dàn phóng.
Rồi buổi sáng hôm đó, khoảng 8 giờ 30 hoặc sớm hơn một chút, chúng tôi nhận lệnh sẽ không di tản. Lệnh bảo chỉ giảm số nhân viên tòa đại sứ, sẽ giữ lại tòa đại sứ ở Sài Gòn với số nhân viên là 180 người, trong đó có 50 người của CIA, nhưng nhóm 50 người đó phải phụ trách công tác thông tin liên lạc cho tòa đại sứ. Còn các trưởng phòng khác trong tòa đại sứ — từ kinh tế, có 8 người, chính trị, có 16 người, y tế, tài chính, hành chính — sẽ nhận lệnh từ Washington, có thể là lệnh của Kissinger, thông qua đại sứ.
Tôi chưa hề nhìn thấy lệnh này trên giấy tờ mà chỉ qua lời của Đại sứ vào buổi sáng hôm ấy.
50 người của CIA phải lo vấn đề thông tin liên lạc của tòa đại sứ. Tôi trở về văn phòng, triệu tập các phụ tá cao cấp.
Vào lúc này, nhân viên CIA của tôi có tại hàng khoảng trên 200 một chút. Tôi nói, “Các bạn, chúng ta giảm xuống còn 50 người nhưng phải phụ trách công chuyện thông tin liên lạc cho tòa đại sứ nhiều hơn trước. Bây giờ thử tính xem 50 người đó là ai. Người đầu tiên là tôi.”
Chuyện này không đơn giản vì không giống như bên Hải quân, nhân viên CIA không thể đổi vai cho nhau. Mỗi người có một chuyên ngành riêng. Người thì báo cáo, người thì hoạt động bên ngoài, người thì phân tích, tôi cũng cần người biết nhiều ngôn ngữ.
Cần phải giữ những người nói được tiếng Việt. Cần phải giữ vài người biết tiếng Ba Lan để giao thiệp với họ trong ủy ban ICCS. Không có vấn đề với tiếng Hungary vì không có ai ngoài tôi ra biết tiếng này. Tôi mất vài tiếng đồng hồ vòng quanh giải quyết chuyện này.
Tôi cũng phải xem người nào sắp mãn nhiệm kỳ, bởi vì nếu ngày mãn nhiệm là đầu tháng 5 thì không lý do gì giữ họ lại. Hoặc ngay khi họ có chương trình trở về Mỹ vào tháng 7, tôi cũng không giữ. Tôi cũng xét đến hoàn cảnh gia đình của họ, vì biết đâu chúng tôi sẽ rơi vào tình huống xấu, giống như hồi 1954 ở Hà Nội, chúng tôi có lãnh sự quán ở đó, nhưng mất liên lạc với họ, dù họ không bị giữ làm con tin. Họ coi như bị giam lỏng bên trong lãnh sự quán nhưng chẳng có ai bận tâm giải cứu họ.
Lệnh tòa đại sứ ở lại cũng được chuyển cho hạm đội đang ở ngoài khơi. Tư lệnh bấy giờ là Đô đốc Noel Geyler. Ông ta đâu phải là dân chính trị chuyên nghiệp, vì thế, ông nói, “Thôi thì bây giờ tòa đại sứ ở lại, chúng ta có thể cho phi công đi ngủ trở lại.” Xăng được hút ra khỏi máy bay vì đó là quy định của tàu khi có máy bay đậu. Thế là máy bay được đem bỏ trở lại dưới hầm tàu.
Bấy giờ là 9 giờ sáng hoặc trễ hơn một tí. Cuối cùng có lệnh lúc 11 giờ 30 là tất cả chúng tôi phải di tản.
Tôi không rõ lệnh này đến ông đô đốc lúc mấy giờ, nhưng Đại sứ Martin nhận được lúc 11 giờ 30. Brent Scowcroft (cố vấn An ninh Quốc gia) chắc đã thông báo cho Bộ Quốc phòng, nhưng giờ đó bên Mỹ là buổi tối, có lẽ người nhận thông báo không có mặt để thi hành.
Tôi không biết khi nào thì ông đô đốc nhận được lệnh, nhưng sau đó, khi tôi gặp ông trên tàu, tôi hỏi, “Chuyện gì xảy ra vậy?” Ông trả lời, “Chẳng có chuyện gì. Ngay khi nhận lệnh di tản, tôi đã ra lệnh bơm xăng các máy bay, tôi dựng đầu các phi công dậy, nhưng rồi lại có lệnh phải đưa một lực lượng Thủy quân lục chiến đến giữ an ninh cho cuộc di tản. Anh biết đấy, số binh sĩ này đâu có đủ trên chiếc tàu có trực thăng, chúng tôi phải đi thu góp Thủy quân lục chiến từ các chiến hạm xung quanh, tập trung họ lại trên chiếc tàu có trực thăng. Tất cả như vậy phải mất thời gian.”
Giờ đây, nếu có ai hỏi tôi có ngạc nhiên về những gì xảy ra hay không, tôi sẽ trả lời tôi chẳng có gì ngạc nhiên. Tôi vẫn luôn nghi ngờ về năng lực của quân đội Mỹ có thể phản ứng thật mau lẹ trong trường hợp có chuyện khẩn cấp xảy ra. Quân đội Mỹ có lối tổ chức rất quan liêu. Lẽ ra trước đó 24 tiếng, khi biết tình hình Sài Gòn đang xảy ra như vậy, người ta phải thu xếp để các Thủy quân lục chiến ở gần các trực thăng, thay vì phân tán đi các tàu khác nằm trên biển mênh mông.
Náo loạn, bát nháo
Thế rồi một chuyện có thể không tiên liệu trước đã xảy ra. Một khi tin tức được loan truyền khắp Sài Gòn rằng người Mỹ sẽ ra đi, người ta đùng đùng đổ về những con đường chung quanh tòa đại sứ, giao thông tắc nghẽn trong khu vực. Ở những khu vực khác còn đi được, chung quanh tòa đại sứ thì không hề. Do đó, kế hoạch dùng từng đoàn xe buýt xuất phát từ tòa đại sứ chở người di tản ra DAO coi như rất khó thực hiện, bởi vì chỉ cần hé cổng vửa đủ cho xe buýt lọt ra, cả tòa đại sứ sẽ bị tràn ngập.
Trước buổi sáng hôm ấy nhiều ngày, chúng tôi đã bắt đầu hủy hồ sơ, tài liệu, hủy một cách có hệ thống.
CIA chúng tôi có quy luật hay, đó là bất cứ tài liệu gì có ở thực địa cũng phải có một bản sao nằm ở Mỹ. Mỗi khi có nhiệm sở CIA nào mất một tài liệu gì đó, thì chỉ là chuyện nhỏ. Do đó, chúng tôi có thể hủy tất cả. Thật vậy, trong những giờ còn lại mà chúng tôi ở đó, chúng tôi đã rà soát tất cả các tài liệu để có thể hủy một cách có phương pháp, những tài liệu nào mà có thể gợi ý rằng người Việt này nọ đã từng giao thiệp gần gũi với chúng tôi. Tôi có một anh bạn vẽ bức tranh tặng tôi và có ký tên trên đó, những loại như vậy cũng chắc chắn bị hủy. Người Việt Nam có thói quen tặng những tấm lắc kỷ niệm khi chúng tôi đến thăm họ. Những tấm ấy cũng dứt khoát phải hủy.
Về cây me trong sân tòa đại sứ hay được nhiều người nói đến, trong tất cả các buổi họp tại tòa đại sứ mà tôi có dự, tôi chẳng bao giờ nghe bàn về chuyện chặt hạ nó. Nhưng tôi vẫn giữ nhiều cảm xúc về nó bởi vì nhờ có nó mới đánh giá được đẳng cấp trong tòa đại sứ.
Xung quanh tàng cây me có một khoảng trống để đậu xe. Nếu xe anh đậu ngoài bóng mát của cây, xe anh bên trong sẽ nóng như lò lửa. Xe của đại sứ được đậu trong bóng mát, nếu xe anh cũng đậu trong bóng mát thì chứng tỏ anh cũng thuộc cấp cao.
Đương nhiên tôi vẫn nhớ đến cây me đó vì nó có một chức năng giá trị. Nhưng nếu nói một cách nghiêm chỉnh, có liên quan đến di tản, tôi chưa hề nghe ai nói gì về cây me đó. Nhưng cũng dĩ nhiên là nếu cần đáp một chiếc trực thăng xuống bãi đậu xe của tòa đại sứ, chặt hạ một cái cây cản đường cũng hợp lý thôi, khỏi cần mang ra bàn cãi. (Câu chuyện cây me cũng được nhắc tới trong một bộ phim tài liệu về những ngày cuối cùng của Mỹ tại miền Nam Việt Nam.)
Một khi ông đại sứ đã rời khỏi Việt Nam, vào sáng hôm sau, tôi không có lý do gì để ở lại đó, và nhân viên của tôi cũng không thể ra đi nếu tôi còn ở lại. Người phó của tôi nhất định không đi, bao lâu mà tôi còn đó. Rút cục tôi quyết định gửi người đi theo thứ tự không cần thiết ở một mức độ nào đó.
Khi tôi nói không cần thiết không có nghĩa là tôi hạ thấp giá trị người đó mà vì công việc của người đó đã chấm dứt so với công việc của người khác. Thực ra, tại thời điểm đó, tôi có thể gửi hầu hết các báo cáo viên về Mỹ vì họ chẳng còn gì để báo cáo. Tôi cũng có thể gửi những người chịu trách nhiệm tại các Quân đoàn 1, 2 và 3. Họ chẳng còn gì để chịu trách nhiệm. Nhưng tôi có thể giữ những người trách nhiệm ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (Quân đoàn 4) vì tôi chưa nắm vững tình hình ở đó. Tôi có thể gửi nhân viên hành chính. Tôi không cần nhân viên phòng nhân sự nữa. Đó là cách tôi giải quyết xem ai đi và khi nào đi. Mọi chuyện diễn ra trôi chảy. Chúng tôi chả bao giờ lo xảy ra chuyện tòa đại sứ bị đánh chiếm, hoàn toàn không.
Có lẽ vấn đề lớn cuối cùng mà tôi và nhân viên tôi lo lắng là làm thế nào đưa một số người Việt vào bên trong tòa đại sứ.
Bấy giờ, tòa đại sứ bị bao vây, theo nghĩa đen, bởi cả chục ngàn người, đông đến độ muốn tiến gần đến cổng cũng đã là khó. Nhưng chúng tôi vẫn còn một số người bên ngoài mà chúng tôi hết sức muốn đưa vào bên trong để di tản, ví dụ trưởng phòng thông tin tình báo, tư lệnh phó cảnh sát, trong thực tế là một vị trí cảnh sát lo về chính trị. Chúng tôi còn phải lo cho vợ và các con của một trung tướng tâm lý chiến, chúng tôi có Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn, chúng tôi có trưởng ban nghi lễ và gia đình, tất cả còn bên ngoài tòa đại sứ. Làm thế nào giúp họ di tản bây giờ?
Tôi liên lạc được với họ. Tướng Đôn xoay sở leo lên được một trực thăng đáp xuống sân thượng một khu chung cư mà lẽ ra không được đáp, đây cũng là một câu chuyện riêng biệt. Lúc bấy giờ tôi hỏi xem có ai tình nguyện đi sau cùng hay không, có hai anh chàng khá lực lưỡng và quyết chí đưa tay lên, và nhờ họ ra đứng gần hàng rào mà chúng tôi cũng nhấc bổng lên được vào bên trong một số người mà chúng tôi muốn đưa đi.
Thấy có vài sĩ quan quân đội trong đám đông, chúng tôi đặt điều kiện với họ nếu giúp tìm ra được trong đám đông những người mà chúng tôi muốn đưa đi thì chúng tôi sẽ đưa họ đi theo, và họ đã làm được.
Suốt ngày hôm đó chúng tôi cũng điều đình với một số nhân viên cảnh sát. Nếu họ trà trộn bà con họ vào nhóm chúng tôi và đưa được cả đám lên xe buýt hoặc lên máy bay thì họ và bà con của họ cũng được đi luôn. Các cuộc thu xếp có vẻ rất thành công. Dàn xếp với cảnh sát thì thân thiện hơn vì chúng tôi quen và tin họ, và họ cũng tin chúng tôi. Có điều hơi buồn cười là cái hôm cuối cùng đó, các đoàn xe của chúng tôi được hộ tống bởi một số xe mô-tô của phủ tổng thống, và họ đã hộ tống được nhiều người đến các địa điểm tập họp khác nhau.
Trong sân của tòa đại sứ, chúng tôi cho các xe hơi đậu quay mũi xe vào giữa sân, để máy nổ và bật đèn lên hết cho đến khi hết xăng hoặc hết bình điện.
Rồi chúng tôi có lệnh phải ra đi, cuối cùng người ta nói với ông đại sứ, “Ông phải có mặt trên chiếc này.” Lúc đầu thì người ta nói máy bay sẽ đáp xuống bãi đậu xe, chúng tôi bèn chạy xuống tầng dưới. Sau đó họ nói kế hoạch đã thay đổi và cho biết, “Không, máy bay sẽ đáp trên nóc.”
Tôi không thuộc thành phần có liên hệ gia đình với người Việt. Tôi không có nhiều cảm xúc với đất nước này giống như một số đồng nghiệp của tôi, họ yêu Việt Nam thực sự. Nhưng sau cùng, nhìn thấy cái kết, tôi nghĩ chúng ta đã làm một việc tệ hại cho người dân ở đó, lẽ ra họ đã có cuộc sống khá hơn nếu ngay từ đầu chúng ta đừng bao giờ đến đó.
Trời khá tối khi chúng tôi lên đường. Hướng Tân Sân Nhứt tôi thấy có vài đám cháy, nhưng nói chung, thành phố có hình ảnh ban đêm quen thuộc bình thường. Đèn đường vẫn sáng, đèn giao thông vẫn chạy. Quả là kỳ quái, có vẻ bất thường với một đất nước đang sống những ngày cuối cùng. Tôi không muốn nói chỉ có một đêm, mà tất cả những đêm trong mấy tuần cuối cùng tại Sài Gòn. Có vẻ như không đúng với thực tế bởi vì mọi thứ đều có vẻ bình thường. Không giống cuộc vây hãm dài ngày ở Warsaw (quân đội Ba Lan chống quân xâm lăng Đức Quốc Xã từ 1 tháng 9 đến 1 tháng 10 năm 1939 mới đầu hàng.) Chỉ mới một ngày trước khi thành phố sụp đổ, ta vẫn có thể đi ăn nhà hàng, thưởng thức món ăn ngon và rượu vang ngon.
Không ai bắn theo máy bay chúng tôi trên đường ra. Đó là một câu chuyện khác. Người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Không giống như người Hồi giáo Shia, người Bắc Việt là dân khôn ngoan. Họ không bao giờ muốn gây ra chuyện gì có thể tạo một cái cớ để người Mỹ can thiệp trở lại. Nếu họ giết đại sứ thì có thể là đi quá đà, ngay cả Quốc hội cũng sẽ nổi giận.
Cách tiếp đón chúng tôi trên chiến hạm Blue Ridge cho thấy cách hành xử tồi tệ nhất của dân nhà binh. Tôi nghĩ người duy nhất không bị soát người là ông đại sứ. Họ soát người và đồ đạc chúng tôi mang theo. Vào thời bình, ngạch trật của tôi cao hơn viên đô đốc chỉ huy chiếc tàu này.
Dù vậy, chẳng có ai phản đối. Chúng tôi mệt mỏi. Chúng tôi khá dễ bảo. Chúng tôi là đoàn quân bại trận.
Châu Quang
Cảm on POLGA, trùm CIA thơí 1975 tai MIEN NAM VIETNAM và nhan vật tuyẻn chọn hàng ngàn nhan vien NGỤY QUYÊN, NGUY QUÂN bán mình cho MẼO. NGUY TÀN DƯ nên bắt chươc tính sòng phẵng vả sự can đãm và lỏng trung thưc vơi lich sữ như tên TRÙM CIA POLGA này. Có đâu mà như bọn NGUY quân , NGỤY quyền tàn dư chạy mất dép, chạy đu càng, chạy cơỉ áo, chạy tuột quần, chạy quên cha, chạy bỏ mẹ, chạy vong thân , chay thất bản, chạy bán sống , chay thieu chết chạy……………..và chạy măc dù ViT CỘNG còn trong tận trong rừng, chạy như rưá má cứ mở mồm ra là CHÚNG TA KHÔNG THUA . hhahahahhahhah . Thật là mot quân đội HÈN NHÁT tứ tướng tơi linh quèn, từ tong thong tơi binh đơ.