Tiếp theo phần I
Các nhà lập pháp
Sau đó là phái đoàn Quốc hội đến. Tôi nghĩ cách hành xử của (hai dân biểu) Fraser và Abzug trong phái đoàn không thể chấp nhận được. Abzug bước vào phòng họp sau khi đến và hỏi, “Ai trong các bạn là Polgar?” Sau khi tôi tự xác nhận, bà nói, “À, tôi đã được cảnh báo là phải cẩn thận khi gặp ông.”
Bấy giờ có một sinh viên miền Nam đang ngồi tù, cuộc tranh đấu của anh ấy gây tí tiếng vang ở Hoa Kỳ. Bà Abzug đòi phỏng vấn anh ta, dù trước đó bà đã hô hoán rằng anh ta đã chết, chính quyền miền Nam đã giết anh ta.
Tôi trả lời: “Không, người miền Nam Việt Nam không làm chuyện đó. Họ có thể tìm ra bất cứ ai đang ngồi tù.” Bà nói: “Nếu thế thì tìm người này.”
Chúng tôi đã tìm ra anh ta đang ở tù mãi tận Tuy Hòa thuộc Quân đoàn 3. (Polgar nhầm, Tuy Hòa thuộc QĐ 2, có lẽ do gõ nhầm khi chuyển văn nói thành văn viết?) Chỗ đó hơi xa, không thể đi bằng xe mà phải dùng trực thăng. Bà nói thời gian duy nhất còn lại mà bà có thể gặp anh sinh viên là sáng Chủ nhật, một bất tiện cho mọi người, nhưng cũng không sao. Chúng tôi thu xếp trực thăng, thu xếp thủ tục ra vào nhà tù. Cho tới khi mọi thứ xong xuôi đâu vào đấy, bà ta lại bảo, “À này, tôi không còn quan tâm đến chuyện này nữa”. Rút cục, bà chẳng bao giờ đi gặp anh ta.
Dân biểu Millicent Fenwick cũng có mặt trong phái đoàn và mặc dù không có cảm tình với chiến tranh Việt Nam, bà vẫn giả vờ gật gù lẳng nghe các buổi thuyết trình, nhưng Abzug thì quá quắt, Frazer cũng vậy.
Lấy ví dụ, khi Tổng thống Thiệu mời phái đoàn dùng cơm tối, hai người đó không xuất hiện. Họ chẳng thông báo hủy hoặc cho biết bằng cách này cách khác, nhất định không ló mặt. Họ đã có mặt tại buổi tiếp đón của thủ tướng, diễn ra trước bữa cơm tối của tổng thống. Đêm đầu tiên họ tới Sài Gòn, Đại sứ mời cơm tối cả đoàn. Mọi người đều tới ngoài Abzug. Bữa đó tôi rất thất vọng vì tôi đã thu xếp để ngồi cạnh bà!
Ban Mê Thuộc và kế tiếp
Theo tôi, không ai nghĩ rằng cuộc tấn công Ban Mê Thuộc sẽ xảy ra vào ngày 5 tháng 3, nhưng người nào có đầu óc tỉnh táo cũng nghĩ Bắc Việt sẽ mở một cuộc tấn công lớn ở Cao nguyên (bây giờ gọi là Tây nguyên).
Chúng tôi có trong tay sơ đồ trên giấy tờ của cuộc tấn công, mô tả cách họ cắt những đường lộ, chuyện đó đã xảy ra, cách họ di chuyển những đơn vị cấp sư đoàn, chuyện đó đã xảy ra, nhưng cuối cùng thì Washington không tin. Lý do Washington không tin là bởi vì — mà thôi, tôi không tiện nói ra những nguồn và phương pháp mà tôi không được phép tiết lộ — nhưng đại khái nói chung là tình báo ở Washington không chấp nhận những ước tính xuất phát từ Việt Nam do cả hai bộ phận DAO và CIA thu thập, rằng sẽ có một cuộc tấn công lớn vào năm 1975. Họ nhất định không tin.
Có nhiều người cho chúng tôi biết chuyện gì đang xảy ra tại Cao nguyên. Tất cả đều đồng ý sẽ có tấn công lớn. Chúng tôi có nhiều nguồn tin nói rằng cuộc tấn công sẽ khởi sự ở Cao nguyên. Nhưng Washington vẫn không tin.
Phía Nam Việt Nam cũng không tự mình nghĩ ra một chiến lược nào khác, ngoài chuyện đưa một trung đoàn ra chỗ này, một trung đoàn ra chỗ nọ để bảo vệ. Còn trung đoàn được tăng cường cho Ban Mê Thuộc thì không đủ sức để đối phó với tình hình. Quá xui cho họ.
Các lực lượng này thì tốt cho nhiệm vụ duy trì an ninh cho địa phương và là một lực lượng trừ bị tốt khi ta ở thế tiến công. Nhưng nếu nói một cách khá chính xác thì những lực lượng này không được huấn luyện hoặc trang bị để chống lại các đơn vị chính quy có xe bọc thép yểm trợ.
Sau khi Ban Mê Thuộc thất thủ, Thiệu họp với tướng Phạm Văn Phú ở Cam Ranh và ra lệnh rút quân ở Cao nguyên. Tôi nhớ cuộc họp diễn ra vào ngày thứ Sáu.
Phú cho thi hành lệnh vào thứ Bảy. Tôi nhận được tin này vào sáng thứ Bảy. Tôi đi tìm Charles Timmes (Thiếu tướng, một trong những phụ tá cao cấp của Polgar) đang ở JGS – Bộ Tổng tham mưu VNCH, và nói với ông, “Tôi chẳng biết cái quái gì đang xảy ra.”
Tôi yêu cầu một phụ tá cao cấp khác đi gặp tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh quốc gia của Thiệu để hỏi xem chuyện gì đang xảy ra ở Quân đoàn 2. Quang trả lời, “Ông biết đó, tình hình không tốt. Có vẻ như chúng tôi không thể mở lại các đường giao thông, chúng tôi lo ngại trước tình hình, chúng tôi phải chuyển quân loanh quanh, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra ở Quân đoàn 2.”
Dường như Quang không biết gì về chuyện Phú đang lui quân.
Timmes không tìm ra tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng, và nói chung, không khí hôm thứ Bảy đó giống như mọi thứ Bảy khác. Nhưng Timmes có gặp tướng Trần Đình Thọ, trưởng phòng hành quân (Phòng 3) để hỏi về tình hình tại Quân đoàn 2. Tướng Thọ nói, “Không có gì xảy ra ngoài những chuyện các ông đã biết”.
Bộ Tổng tham mưu dường như cũng chẳng biết Phú đang lui quân. Tôi tìm người của tôi ở Pleiku. Một người đang lang thang đâu không biết, một người đang khám răng. Tôi bèn gọi cho Moncrieff Spear, Tổng lãnh sự ở Quân đoàn 2, và nói, “Tốt hơn hết là anh nên đưa nhân viên của anh ra khỏi Pleiku.” Ông ta trả lời, “Anh điên rồi.” Ông ta đang ngồi ở Nha Trang. Tôi nói, “Không, tôi có lý do để tin rằng chuyện đó xảy ra.” Ông ta nói, “Bộ anh ra lệnh cho tôi di tản khỏi Plieiku hả?” Tôi trả lời, “Anh biết là tôi không có quyền đó, nhưng tôi có thể kết luận rằng di tản là một hành động khôn ngoan.”
Điểm tôi muốn nêu ra ở đây là những gì mà tướng Phú đã làm váo sáng hôm đó, cho dù trước đây ông ta có những công trạng gì đi nữa, là một hành động hoàn toàn thiếu phối hợp.
Thậm chí tướng Phú cũng không nói cho Tổng Lãnh Sự biết, một chuyện mà lẽ ra ông ấy có nghĩa vụ phải làm, bởi vì Tổng Lãnh Sự là đại diện chính của Mỹ tại Quân đoàn 2.
Tướng Quang cũng không biết. Ý tôi là nếu sáng đó có chuyện gì quan trọng xảy ra thì Quang cũng tỏ ra bận rộn, nhưng không, ông ấy vẫn tỏ ra bình thường như một sáng thứ Bảy bình yên. Còn tướng Thọ, trưởng phòng hành quân cũng không biết.
Theo suy luận của tôi, Phú đã khởi động một chuỗi hành động do hiểu lầm ý định của Tổng thống Thiệu, và Phú không biết tí gì rằng thực hiện một cuộc rút lui như vậy trong thực tế rất là khó khăn biết chừng nào. Sự thực là không hề có cái gọi là di tản tốt đẹp. Mỗi lần di tản trước sau gì cũng trở thành một thảm họa lớn lao.
Thế rồi Bắc Việt nắm bắt được cuộc di tản của Phú. Xe tăng miền Bắc xoay xở đến được một con đường ven quốc lộ ở Phú Bổn và chờ sẵn đoàn quân rút lui. Thế là cuộc tàn sát xảy ra.
Trước khi có cuộc họp ở Cam Ranh, tôi đã chính thức thông báo cho Washington biết rằng cuộc chiến đã chấm dứt. Tôi còn nhớ đã nói chuyện này với một trong những người tôi hay tiếp xúc, tôi xin miễn nêu tên, một người mà tôi vẫn tin cậy. Ông ta nói với tôi miền Nam không thể chịu đựng trước sự kiện mất Ban Mê Thuộc và kế tiếp sẽ mất Cao nguyên, mà ông nghĩ là hậu quả không tránh khỏi của chuyện mất Ban Mê Thuộc. Ông ta thuộc hàng tướng lãnh.
Tại thời điểm đó, không có chuyện gì xảy ra tại Quân đoàn 1.
Thế rồi tai họa đổ xuống. Thiệu quyết định rút cả Thủy quân lục chiến lẫn Nhảy dù khỏi Quân đoàn 1. Quyết định này phá hoại bất kỳ kế hoạch kháng cự nào mà tướng Ngô Quang Trưởng có được. Và rồi sư đoàn Thủy quân lục chiến thua trận và không còn dùng được nữa bởi vì lúc đầu họ nhận lệnh rút nhưng sau đó lại có lệnh quay đầu lại, trở lại chỗ cũ, một động tác quân sự bất khả thi. Trong thực tế, sư đoàn Thủy quân lục chiến mất đi một số quân cụ một phần vì không thể nào thu hồi quân cụ giữa dòng người tỵ nạn đang chảy siết.
Dĩ nhiên, đến nước này thì Thiệu chơi vơi trên đại dương và đi tìm ống thở. Nhưng cho dù ông ấy có làm gì đi chăng nữa cũng chẳng tạo khác biệt. Trò chơi đã chấm dứt.
Tôi tin chắc rằng ngay khi mà người Việt Nam có cảm tưởng chúng ta sắp bỏ chạy, mọi thứ sẽ sụp đổ. Tôi hoàn toàn đồng ý với Đại sứ Martin ở điểm đó.
Martin rời Việt Nam cùng với phái đoàn Quốc hội vừa đến Việt Nam vì họ có sẵn máy bay, ông ấy có thể quá giang miễn phí. Ông tin rằng mình có thể vận động với một số dân biểu, muốn trở về Mỹ để điều trần trước Quốc hội.
Theo tôi biết thì trong thời gian Martin ở Washington, người ta phát hiện ông mắc một loại bệnh cần phải mổ, do đó, chuyến về Việt Nam bị dời lại. Khi biết người ta không muốn làm ồn ào về chuyện ông phải mổ, ông trở về quê nhà ở North Carolina. Ngay cả Bộ Ngoại giao cũng không tìm ra ông, hơn nữa, ông thuộc loại người thích giữ bí mật. Martin trở lại Việt Nam vào cuối tháng 3, trước khi mất Đà Nẵng và tai nạn máy bay C5A.
Trẻ mồ côi và máy bay rơi
Khi người ta gửi các trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam trên chiếc C5A thì đó là một đề nghị thuần túy đánh động tâm lý quần chúng.
Bác sĩ Phan Quang Đán, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng y tế cảm thấy cần phải làm một cái gì đó cho đám trẻ mồ côi. Đại sứ Martin và vài cố vấn cảm thấy nếu đưa số trẻ này đến Mỹ theo số lượng lớn sẽ đánh động dư luận quần chúng, một câu chuyện đầy ắp tình người.
Cùng lúc đó, văn phòng tùy viên quốc phòng DAO có nhiều nữ nhân viên trong tư thế sẵn sàng di tản, nhưng do thủ tục hành chính, họ chưa khởi hành được vì chính phủ Mỹ chưa phát lệnh di tản chính thức.
Ai phải chi cho tiền máy bay đưa họ ra khỏi Việt Nam? Chính phủ Mỹ đúng không? Nếu vậy thì tôi nghĩ ta có thể cho các nữ nhân viên này đi chiếc máy bay quân sự đang trống bụng sau khi bốc hàng hóa xuống, và chỉ đinh họ là những người tháp tùng các trẻ mồ côi, luôn tiện giải quyết luôn chuyện tiền bạc phải kết toán như thế nào.
Có nhiều người vì nhiều lý do khác nhau đã lạm dụng số chỗ ngồi trên chiếc máy bay to lớn này. Vợ tôi cũng ra khỏi Việt Nam với tư cách tháp tùng trẻ mồ côi, nhưng bà ấy đi với Cathay Pacific, một hãng hàng không dân sự, cùng ngày với chiếc C5A rơi.
Lúc bấy giờ CIA chúng tôi có hai bác sĩ, khi máy bay rơi, họ phụ đưa các trẻ vào bệnh viện Seventh Day Adventist ở Sài Gòn (bệnh viện do một giáo phái Tin Lành điều hành). Một trong hai bác sĩ của tôi đầu óc còn tỉnh táo, có mang theo máy ảnh, chụp được rất nhiều ảnh trông rất tang thương.
Tôi cho đại sứ xem ảnh, ông ta suy nghĩ thật lâu để xem có nên công bố số ảnh này hay không. Cuối cùng, ông kết luận rằng những hình ảnh khủng khiếp này, tất cả đều rõ ràng, màu sắc sinh động cho thấy những cơ thể méo mó của phụ nữ và trẻ con, thay vì khơi động lòng thương xót của quần chúng, sẽ tạo ra kết quả ngược lại, làm quần chúng mất tinh thần. Đó chính xác là những gì đã xảy ra tại DAO bấy giờ. Các ảnh này không được phổ biến.
Đằng sau hậu trường
Vài ngày trước khi Thiệu từ chức, một sĩ quan Hungary cao cấp trong Ủy ban ICCS gặp tôi và nói, “Này này, anh phải thực tế, anh phải biết là các anh đã thua rồi.” Tôi trả lời, “OK, tôi thú nhận chúng tôi đã thua.” Rồi ông nói, “Thua trận bắt buộc dẫn đến hậu quả chính trị.” Tôi nói, “Tôi đồng ý với anh.” Ông nói, “Hậu quả chính trị hiển nhiên sẽ là cay đắng, nhưng cái phe mà tôi đại diện cũng không muốn…” — ông ta bỏ lửng phe mà ông đại diện là phe nào — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết. Có thể làm cái gì đó để không thay đổi kết quả chiến tranh, vì chiến tranh đã chấm dứt, mà là để tạo một kết thúc lẽ ra không nên dẫn đến…” — một lần nữa ông nhắc lại — “làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết.”
Tôi mới hỏi: “Anh có ý kiến gì không?” “Thật ra thì,” ông nói, “anh biết đoàn (Hungary) chúng tôi ở Tân Sân Nhất hay nói chuyện với các đồng nghiệp Bắc Việt. Chúng tôi cũng có người ở Hà Nội. Chúng tôi đoán có thể làm một cái gì đó dựa theo những đường nét sau đây. Thiệu phải từ chức. Hoa Kỳ phải hứa không can thiệp công chuyện của Nam Việt Nam ngoài chuyện duy trì một đại sứ quán bình thường. Phía Nam Việt Nam thì phải có một chính quyền gồm những người mà Bắc Việt có thể chấp nhận. Đó là những nét chính.”
Tôi nói, “Vâng, thế thì cám ơn anh. Dĩ nhiên tôi sẽ báo cáo những gì chúng ta vừa trao đổi. Tôi sẽ bàn với đại sứ để sau đó chuyển về Washington, và rồi sẽ nói lại với anh sau. Trong khi chờ đợi câu trả lời từ Washington, anh làm ơn nói chuyện lại với các bạn anh để tìm hiểu một số người nào mà họ xem là có thể chấp nhận được trong chính phủ hộ tôi được không?”
Vài ngày sau đó, Thiệu từ chức. Tôi trở lại gặp ông bạn Hungary và nói, “Thấy chưa, tôi đã thực hiện điểm đầu tiên của anh. Chúng tôi vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát (từ Washington). Anh có đề nghị nào về những cái tên chưa?” Ông trả lời, “À, có chứ, nhưng tôi không rành tiếng Việt lắm, cho nên tôi đã ghi ra.” Ông móc cuốn sổ tay ra và đọc cho tôi một số tên, tất cả đều quen thuộc với tôi.
Xong tôi nói, “Tốt lắm, tất nhiên tôi sẽ tiếp tục báo cáo rồi sẽ cho anh biết sau.” Nhưng ông ta nói, “Các đồng nghiệp của tôi muốn nói thêm như thế này nữa, họ nói với tôi rằng khi họ nói các anh phải quyết định nhanh nhanh thì điều đó có nghĩa là trong vòng vài ngày, không phải vài tuần.”
Tôi xin dừng lại ở đây để nói thêm rằng ông đại sứ rất siêu lòng về giải pháp này. Ông nghĩ rằng đây là chuyện mà chúng ta có thể làm được. Nhưng chúng tôi gặp phải phản ứng rất tiêu cực của Kissinger. Kissinger chẳng muốn điều đình gì cả.
Thế rồi chúng tôi gặp lại nhau ngày 26 hoặc 27 gì đó. Lần này, ông nói, “Thôi, tôi nghĩ bây giờ đã quá trễ.” Nói cách khác, khoảnh khắc mà họ xem là thuận lợi để có một thỏa hiệp nào đó đã vuột khỏi tầm tay.
Lý do tôi kể ra chuyện này là vì tôi muốn nói những lời mạnh mẽ nhất có thể được, rằng chúng ta chưa hề có một thỏa hiệp nào và chúng ta chưa hề làm những gì mà phía bên kia muốn chúng ta làm, còn chuyện Thiệu từ chức là hoàn toàn vì những lý do khác, nhưng tôi cứ làm bộ với họ rằng chúng ta có can dự vào chuyện này.
Họ muốn tránh làm nhục Hoa Kỳ một cách không cần thiết, nhưng cuộc thu xếp không thành theo cái nghĩa là người Hungary không còn cảm thấy họ có thể đóng góp một cái gì đó để mang lại giải pháp.
Thiệu từ chức
Ngày Thiệu từ chức là thứ Hai, 21 tháng Tư. Ông đại sứ không nói với Thiệu về chuyện từ chức, nhưng tính đến ngày 19 tháng Tư, khi đại sứ nói chuyện với tổng thống, rõ ràng là Thiệu đã mất tin tưởng với tất cả mọi người, và cũng rõ ràng là mọi người đều thấy Thiệu là trở ngại cho bất kỳ một thu xếp nào, bất kỳ một ngưng bắn dễ chịu nào, nói tóm lại là nếu còn Thiệu thì chẳng làm được bất kỳ chuyện gì.
Một hôm, ông đại sứ gọi tôi vào văn phòng, cho biết ông vừa đi gặp Tổng thống Hương và Hương cho biết không thoải mái khi Thiệu vẫn còn ở Việt Nam. Hương nghĩ rằng sự có mặt của Thiệu làm loãng đi quyền lực của Hương và Hương coi như bị tê liệt, bao lâu mà Thiệu vẫn còn đó. Hương khẩn thiết quay sang Đại sứ Martin bởi vì chỉ có Hoa Kỳ mới ở vào vị trí có thể làm gì đó để giải quyết chuyện này. Hương còn nói đưa Thiệu ra khỏi Việt Nam cần phải làm trong vòng tuyệt đối bí mật.
Thật vậy, Đại sứ Martin, một khi nghe đến tuyệt đối bí mật, nếu suy luận một cách hợp lý, thì ông bèn nghĩ ngay đến CIA. Ông kể câu chuyện của Hương và hỏi tôi: “Liệu anh có làm được không?”
Tôi trả lời, “Vâng, tôi làm được, thưa Đại sứ, nhưng với một số điều kiện. Ông cứ để yên mình tôi làm. Ông giao nhiệm vụ cho tôi thì cứ để tôi làm, đừng làm theo kiểu một nhóm, ông chịu không?” Hôm đó phải là ngày 24.
Mọi chuyện xảy ra dồn dập sau ngày đó. Tôi biết chỗ để tìm ra chiếc máy bay thích hợp. Tôi sử dụng Tướng Timmes làm đầu mối liên lạc chính (với chỗ có máy bay).
Bấy giờ Thiệu đang ở căn biệt thự bên trong bộ Tổng tham mưu. Các tướng lãnh Việt Nam đều có biệt thư trong khu vực gần Tân Sơn Nhất này.
Chúng tôi đồng ý với một kế hoạch hành động. Có một vài chuyện cần phải lo lắng. Lo lắng về công luận. Lo lắng phe quân đội bất tuân kỷ luật có thể xen vào, một số sĩ quan trung cấp muốn lấy tiếng trong lịch sử (như đã từng xảy ra đảo chánh và dội bom). Lo lắng về các trạm kiểm soát của cảnh sát trên đường vào Tân Sơn Nhất, các trạm này đã có sẵn, chẳng liên quan gì đến chuyện Thiệu ra đi.
Vì thế, chúng tôi phải bịa ra một câu chuyện, giả vờ đi dự một buổi liên hoan ở Bộ Tổng tham mưu. Chúng tôi dùng các xe màu đen bốn cửa thông thường của Mỹ, trong đó có xe đại sứ, xe tôi, xe phụ tá của tôi, vừa đủ để chở từ 10 đến 12 người, cọng thêm các tài xế, cọng thêm Timmes, cọng thêm tôi, cọng thêm hành lý.
Chúng tôi dặn mỗi người chỉ được mang một kiện hành lý và hẹn gặp nhau tại biệt thự của Thủ tướng, là tướng Khiêm. Lý do chọn nhà của Khiêm thứ nhất nhà này rộng nhất, thứ hai ít gây chú ý hơn nhà của Thiệu.
Chúng tôi cũng đồng ý sẽ bay tới Đài Loan, nơi Thiệu có ông anh làm đại sứ, ông này sẽ thu xếp với nhà chức trách Đài Loan để cho mọi người nhập cảnh. Hơn nữa, Thủ tướng Khiêm trước đây đã từng làm đại sứ ở đó nên ông cũng có những quen biết riêng.
Khi chọn Đài Loan làm điểm đến, tôi cũng chịu ảnh hưởng bởi khả năng của chiếc DC-6. Đài Loan là điểm xa nhất mà loại máy bay này đến được mà không cần tiếp nhiên liệu.
Về phía tài xế thì tôi chọn những người mà tôi nghĩ là hay nhất, đáng tin cậy nhất, và có tinh thần cao nhất. Dĩ nhiên, tôi không muốn dùng tài xế người Việt trong trường hợp này.
Một trong những tài xế là Frank Snepp (ngạch Phân tích gia CIA, sau 75 viết cuôn Decent Interval, cũng thuật lại những ngày cuối cùng mất miền Nam.) Timmes ngồi ghế hành khách vì cấp bậc anh ta không cho phép anh lái xe và ngạch trật của tôi cũng vậy.
Tiếp theo là tìm một cấp đại tá cảnh sát Việt Nam được biệt phái từ quân đội sang, tôi muốn có “một người nào có quyền ra lệnh” để lỡ gặp những người canh gác có thắc mắc, hỏi han làm khó.
Thật ra tôi nghĩ chắc chẳng có ai làm khó khi thấy bốn chiếc xe Mỹ do bốn người Mỹ lái, họ sẽ nhận ra xe của đại sứ Mỹ đi họp.
Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì nhưng tôi vẫn muốn có ông đại tá quân đội biệt phái sang cảnh sát để phòng hờ trường hợp có quá đông người trên các xe.
Chúng tôi không rõ Thiệu sẽ mang theo người nào. Chúng tôi biết đích thân Thiệu sẽ đi, Khiêm cũng vậy, nhưng không biết số người còn lại gồm những ai.
Do đó, chúng tôi mang theo một số giấy tờ đã ký sẵn nhưng tên thì để trống, để Timmes sẽ điền vào bằng tay. Chúng tôi sẽ đưa những giấy tờ này cho trưởng phi cơ và dặn, “Khi nào bạn đến Đài Loan, chúng tôi sẽ thông báo cho giới chức quân sự Mỹ, bạn phải xin nói chuyện với giới chức quân sự Mỹ cao cấp nhất ở đó, và trao cho người đó bao thư này, trong đó có tất cả giấy tờ về hành khách.”
Cùng khi ấy, một chiếc xe khác đưa ông đại sứ đến thẳng máy bay vì ông muốn từ giã Thiệu. Trước đó, tôi nói với ông, “Tôi không muốn ông đi cùng xe với tôi loanh quanh khắp thành phố, như vậy sẽ tạo thêm rủi ro.” Chúng tôi đổi xe với nhau, ông ấy dùng xe tôi, tôi dùng xe ông.
Mọi việc diễn ra đúng y bon như đồng hồ Thụy Sĩ, giống như mọi chuyện thường xảy ra khi chúng tôi làm một mình. Chúng tôi đưa mọi người đến máy bay an toàn, đưa họ cùng hành lý lên máy bay, và máy bay cất cánh.
Tôi đi cùng xe với Thủ tướng. Nếu tôi không lầm, tướng Timmes đi với Thiệu. Không khí rất êm ả, không nghe tiếng khóc. Bà con họ đã đi hết rồi.
Thật ra tôi ngạc nhiên. Tôi ngạc nhiên bởi vì trong số tất cả những người thân cận với Thiệu, người duy nhất mà ông muốn mang theo lên máy bay là cựu Thủ tướng Khiêm. Cái này hơi buồn cười bởi vì trong những năm trước đó, các quán cà phê ở Sài Gòn đồn rằng có sự kèn cựa giữa Thiệu và Khiêm, người này sẽ đẩy người kia đi, đại loại như vậy. Thật vậy, tôi không hề muốn kể công bởi vì thực sự tôi có quan hệ tốt với Thủ tướng, tôi luôn luôn đánh giá ông là người trung thành với Thiệu.
Đêm hôm đó có tất cả 14 người đi trên phi cơ, toàn là đàn ông.
Bữa đó tôi lo lo, lỡ có chuyện gì không vui xảy ra nếu có người biết được Thiệu có mặt trong đoàn xe. Nhưng tôi lại nghĩ thế nào dân Việt Nam cũng phân biệt được giữa một đoàn xe trông có vẻ quan trọng của tòa đại sứ Mỹ khác với cách di chuyển thường lệ của Thiệu trong thành phố bằng chiếc Mercedes cũ.
Lúc đó trời tối và tôi nghĩ khó có chuyện xen vào công việc của bốn chiếc xe Mỹ. Chiếc dẫn đầu là chiếc Chevrolet Caprice bọc thép của đại sứ, trong xe có tôi, có ông đại tá cảnh sát bên cạnh. Vấn đề lớn nhất của tôi là rủi cảnh sát chận lại hỏi giấy tờ và chiếu đèn sáng vào bên trong thì họ sẽ nhận ra Thiệu và Khiêm.
Nhưng trong thực tế, khi bốn chiếc xe trông có vẻ quan trọng tiến gần sát trạm kiểm soát của cảnh sát, mọi người đứng nghiêm và chào tay; và đó là điều tôi mong đợi.
Thực ra, kinh nghiêm về thứ tâm lý này tôi đã học được sau lần đưa một nhân vật quan trọng đào thoát khỏi Đông Berlin trên một chiếc xe loại lớn như vậy, chúng tôi tính toán rằng khi lính gác Soviet thấy một chiếc xe loại này, họ sẽ chào tay. Và họ chào thật.
(Còn nữa)