Hồ sơ đen về những kẻ bội phản chính trị (2) – Lời sám hối muộn màng của Lê Quốc Trinh

11

Tiếp theo phần 1

“Em muốn nhắn gửi những người bạn không đồng quan điểm với em rằng: ‘Chúng mình là người lớn.“

Lê Quốc Trinh

Hãy sống thế nào cho ra người lớn.’ Đừng để con trẻ phải gánh chịu. Đừng để con trẻ chất vấn vì đó đúng là một điều đáng nhục. Mình chính là nhân tố thay đổi xã hội, thay đổi thể chế để giúp Việt Nam trở nên tốt hơn, người dân Việt Nam được sống an nhiên hơn.” – Anna Huyền Trang

Hôm nay ngày 3 tháng 3 năm 2015, tôi quyết định viết bài sám hối này để dứt khoát với những sai lầm trong quá khứ và nhân dịp chính thức xin lỗi tất cả người dân miền Nam (từ vĩ tuyến 17 trở xuống) cùng với hàng triệu người Việt Nam di tản trốn ngục tù cộng sản, đã hy sinh hay đang sinh sống khắp nơi trên thế giới.

Trước hết tôi xin tự giới thiệu. Tôi tên là Lê Quốc Trinh, sinh năm 1948 cư ngụ tại Canada từ năm 1967, là kỹ sư cơ khí về hưu, gia đình gốc Việt Nam, nuôi dưỡng con cái theo truyền thống Việt Nam. Cha mẹ tôi là người miền Bắc, 1945 di cư vào Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở miền Nam Việt Nam, tại Saigon thân yêu; tôi được hấp thụ một nền giáo dục cao thượng, nhân bản, nồng nàn yêu nước dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa; vì thế, tôi không thể nào quên công ơn của toàn thể nhân dân và chính phủ miền Nam đã góp phần đào tạo tôi thành một con người lương thiện, biết tư duy và có tình cảm.

Lời xin lỗi

Trước hết tôi thành thật xin lỗi cố tổng thống Ngô Đình Diệm vì hành động theo đuôi phong trào Phật giáo xuống đường chống đối chính phủ trong lúc không hiểu rõ nguồn cơn và sự thật của vấn đề. Năm 1963 tôi còn là một thanh niên trẻ tuổi bồng bột; là một học sinh trường trung học Võ Trường Toản, sát cạnh dinh tổng thống nên tôi dễ dàng bị lôi cuốn theo những đoàn biểu tình một cách thiếu ý thức. Qua đến Canada tôi tìm, hiểu được thêm nhiều chi tiết lịch sử, được nghe các nhân chứng kể lại về phong trào Phật giáo, và tôi truy ra được nguồn gốc của sự kiện. Tôi sẽ trình bày rõ thêm về vấn đề sau này.

Thứ hai, tôi thành thật xin lỗi gần hai triệu người tị nạn miền Nam Việt Nam đã vượt biển, vượt biên đi tìm tự do(1), vì những hành vi khi tôi sinh hoạt và đóng góp tích cực cho Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada (HVKYNTC), từ năm 1973 đến năm 1990. Tôi đã vô tình tiếp tay cho một tổ chức ủng hộ và phục vụ cho Đảng Cộng sản và Nhà Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là CHXHCN Việt Nam, làm những việc góp phần xây dựng cho một chế độ phi nhân bản, phản khoa học tại quê nhà. Tôi sẽ tiếp tục trình bày cặn kẽ những sự kiện xảy ra ở trong tổ chức này này để tất cả bạn đọc có thể thấy rõ bộ mặt thật của một nhóm người gọi là trí thức thân Cộng trong thời gian Hội còn hoạt động (1969-1990) và cho đến ngày nay.

Thứ ba, tôi thành thật xin lỗi các bác, các anh chị, công chức chính phủ và toàn thể các chiến sĩ, sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh để bảo vệ tự do – trong gần 21 năm, 1954-1975 – và đời sống của người dân miền Nam Việt Nam. Tôi rời Sài Gòn, du học từ cuối năm 1967, nên không có công lao gì trong công cuộc chiến đấu đầy xương máu chống cộng sản xâm lược từ phía Bắc. Có quá nhiều tấm gương hy sinh quả cảm của sĩ quan và binh sĩ quân lực Việt Nam Cộng hòa mà tôi không biết đến, đó là lỗi lầm và thiếu sót của tôi. Đến nay nhờ thông tin quảng bá trên mạng lưới Internet và qua thông tin cặn kẽ từ nhiều trang báo mạng hải ngoại mà tôi mới thực sự hiểu nỗi thống khổ và hy sinh của các anh chị, các bác trong hàng ngũ quân cán chính Việt Nam Cộng hòa.

Danh dự -Tổ quốc: Một chiến sĩ Thủy quân lục chiến VNCH bị thương trong cuộc chiến đấu bảo vệ người dân Sài Gòn chúng trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968. Nguồn: Angelo Cozzi/Mondadori Portfolio via Getty Images

Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi suy nghĩ

Thật tình mà nói, tôi đã hoạt động tích cực ở đủ mọi lĩnh vực trong một tổ chức thân cộng hơn 17 năm ròng nhưng không hề bị tư tưởng Mác Lê ảnh hưởng vì những yếu tố sau:

– Là người suy nghĩ độc lập, bướng bỉnh, không a dua và không quỵ luỵ từ nhỏ;

– Thích đọc sách, truyện, bị lôi cuốn theo lối sống miền Nam ngày trước, chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hoá miền Nam dân chủ tự do.

– Gần 40 năm hoạt động trong ngành công nghiệp khai khoáng và hoá dầu của Canada tôi đã học được nhiều điều hay về cách tổ chức, tư duy, cách làm việc trung thực của hệ thống tư bản Bắc Mỹ. Điều này đã giúp tôi đã gạn bỏ đi nhiều tàn dư rơi rớt trong lối học từ chương của Việt Nam thời xưa cũng như tinh thần bảo thủ phương Đông; kinh nghiệm làm việc đã giúp tôi hiểu rõ xã hội tư bản hơn và tránh được cạm bẫy dụ dỗ của ý thức hệ cộng sản Mác Lê, và đã giúp cho tôi có cái nhìn chính xác về những con người trí thức thiên tả tháp ngà trong Hội VKYNTC.

– Tôi cũng có được những tấm gương yêu nước dưới thời thực dân Pháp từ những bậc tiền bối của gia đình. Ông ngoại tôi, cụ cử Nguyễn Hữu Cầu, ông bác tôi, cụ Từ Long Lê Đại, là hai trong số những sáng lập viên Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã từng bị thực dân Pháp bắt giam đầy ra đảo hơn 17 năm trời. Bác tôi, cư sĩ Phật học nổi tiếng Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha, người soạn ra bộ Hán Việt Tự Điển lừng danh, cũng từng bị Việt Minh đem ra đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất 1954 khiến ông đã phải trầm mình tự tử để minh oan. Tôi sẽ có dịp nói nhiều đến những kỷ niệm khó quên về mặt tâm linh với bác Hai Kha Thiều Chửu cùng con cháu hậu duệ đã giúp tôi lần dò tìm lại truyền thống yêu nước của giòng giõi nhà Nguyễn Đông Tác ở Hà Nội.

– Là một trong những thành viên tích cực hoạt động giúp HVKYNTC vì tôi nghĩ rằng mình đang góp phần giúp ích cho quê hương; với kinh nghiệm của một kỹ sư cơ khí thích thiết kế và sáng tạo, tôi là người phụ trách chính về công cuộc cải tạo xây dựng lại Hội quán, số 1450 đường Beaudry, Montreal, giúp cho Hội đoàn này có cơ sở vật chất vững mạnh để phát triển thịnh vượng từ năm 1984 đến 1990. Và tôi cũng có một số hiểu biết nhất định về nhiều vấn đề liên quan đến những công ty kinh doanh do một số nhân vật trong ban lãnh đạo Hội đứng đầu. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở những bài sau.

1450 Rue Beaudry, Montréal H2L 3E5: Trụ sở kinh tài của Hôi VKĐK thời Việt Nam bị cấm vận đến khi tan vỡ
(1984-1990). Nguồn: Google Maps.

– Mẹ tôi là một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, tận tuỵ tần tảo hy sinh xây dựng gia đình, nuôi nấng con cái. Nhà in Hưng Long, ở Chợ Cũ Saigon, do mẹ tôi thành lập từ 1960, đã từng in ấn rất nhiều kinh sách nhà Phật. Tôi là thầy cò, có trách nhiệm kiểm tra văn tự, lỗi chính tả trước khi lên khuôn. Do đó tôi có cơ duyên tiếp xúc với triết lý nhà Phật sớm; sau này, qua nhiều tác phẩm của bác Thiều Chửu tôi lại có dịp tìm hiểu nghiên cứu thâm sâu về đạo Phật. Mạng lưới Internet cùng với nhiều diễn đàn đã giúp tôi hiểu rõ phong trào Phật giáo thời 1963, cùng với kinh nghiệm sống trong xã hội tự do dân chủ tư bản ở Bắc Mỹ đã khiến tôi đã phải tự thay đổi tư duy để có quan điểm đúng đắn về lĩnh vực tôn giáo tâm linh;

– Tôi là người thích âm nhạc từ nhỏ, tự học thổi sáo, chơi khẩu cầm, đánh đàn mandoline, và tôi đã đi vào thế giới tân nhạc Việt Nam với cả trái tim nồng nhiệt. Tôi đã từng mời nhiều em khiếm thị ở trường Mù Saigon đến nhà giúp tôi học thêm về lý thuyết và thực hành âm nhạc. Tôi biết đến nhạc tiền chiến rất sớm, thưởng thức nhiều bản nhạc xa xưa ngay tại miền Nam trong những năm 1960, những tác phẩm mà chính quyền cộng sản miền Bắc đã nghiêm cấm. Tôi sưu tầm những bản hùng sử ca Việt Nam từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp để hiểu rõ thêm bối cảnh lịch sử và tâm tư của nhiều nhạc sĩ dân gian nổi tiếng. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ thêm sau này.

Đối tượng của lời sám hối

Tôi biết trước những hậu quả khó tránh khỏi khi viết bài đăng tải rộng rãi trên các trang báo Mạng. Trước tiên là tình bạn hữu có thể sẽ bị sứt mẻ trầm trọng với những người tôi từng sát cách sinh hoạt trong HVKYNTC; sau nữa là những thay đổi có thể có trong quan hệ gia đình từ Canada cho đến Việt Nam. Tôi chấp nhận tất cả và xem như đó là cái giá có thể phải trả; tôi sẽ chấp nhận, chịu đựng mọi hệ quả để lương tâm được thanh thản không còn bị giầy vò.

Tuy nhiên, tôi xin phép có đôi lời nhắn gởi đến với tất cả các anh chị bạn bè quý mến trong Hội.

Thân gửi các anh chị em quý mến trong Hội,

Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi phản ứng của các anh chị em hơn hai năm qua, từ khi tôi viết và đăng trên Mạng bài “Sự thật nằm sau bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”(2). Tôi đã gửi riêng cho các anh chị bài viết đó qua e-mail để giúp các anh chị tìm hiểu rõ hơn nội dung bức công hàm và bối cảnh lịch sử xung quanh sự kiện rất quan trọng này. Thế nhưng tôi đã hoài công và vô cùng thất vọng, vì không được một câu trả lời dù đồng ý hay phản đối lập luận của tôi. Tôi xin phép được nhắc lại bài viết đó để anh chị đọc lại và cho cộng đồng người Việt hải ngoại cùng xem và phê phán.

Hai năm trôi qua, những gì xảy ra ở Biển Đông, xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã đủ để chứng minh cho những lập luận, phân tích và nhận định của tôi. Trung Quốc càng ngày càng hung hăng, xâm lấn ngang ngược. Trong khi đó thì tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà Nước CHXHCN Việt Nam lại càng co vòi, lép vế, ngậm miệng nín khe. Họ cùng ngồi yên, nhìn ngư dân Việt Nam bị cướp phá uy hiếp. Tất cả đều chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam chỉ là một bè lũ bù nhìn, bán nước. Họ đã lấy giang san lãnh thổ đem bán – bằng văn tự – cho lũ láng giềng hung tợn phương Bắc, để nhận được viện trợ vũ khí đạn dược, nhiên liệu thực phẩm, hầu thực hiện mưu đồ chiếm nốt miền Nam trù phú phì nhiêu. Trong khi đó, ngay sau khi Trung Quốc đưa Tuyên bố về Lãnh hải ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, bằng hành động, đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ ở đảo Quang Hòa(3) và ở quần đảo Hoàng Sa bằng trận hải chiến năm 1974, cũng như những công văn gởi đến Liên Hiệp Quốc phản đối CHNDTH vi phạm trắng trợn chủ quyền Việt Nam(4).

Công văn của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Gonzalo Facio, phản đối CHNDTH trắng trợn vi phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, trang 1/5 (New York, 18/01/1974).
Nguồn: Wilson Center. Digital Archive, International History Declassified

Các anh chị theo dõi sát tình hình Biển Đông từ lúc dàn khoan HD-981 lừng lững đi vào lãnh hải Việt Nam và ngang nhiên cắm sào thăm dò dầu khí của Việt Nam. Các anh chị cũng đã xuống đường phản đối theo đúng chỉ thị… rồi sau đó mọi việc, một cách êm thắm, lại đâu vào đó. Trung Quốc vẫn tiếp tục ngang nhiên xâm phạm biển đảo Việt Nam, và anh chị vẫn im hơi lặng tiếng. Đó có phải là hành động và tư cách của những con người trí thức hải ngoại, những người đã từng hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng của miền Nam Việt Nam, những người từng vỗ ngực tự xưng là Việt Kiều Yêu Nước Tại Canada?

Tôi rất mong các anh chị suy nghĩ lại, đặt quyền lợi đất nước và con người Việt Nam lên trên tất cả mọi quan hệ lợi nhuận riêng tư với chế độ cộng sản đương quyền, để cùng nhau lên tiếng sám hối vì an nguy của cơ đồ tổ quốc. Cơ hội để cứu nguy cho đất nước không còn nữa đâu! Hơn 60 năm qua, chủ nghĩa cộng sản ngấm quá sâu vào não trạng người dân miền Bắc, toàn thể Bộ Chính trị đảng cộng sản và tập đoàn lãnh đạo Nhà Nước Cộng sản Việt Nam đã và đang bị thế lực từ phương Bắc uy hiếp, mua chuộc, ly gián. Bài học lịch sử về tình báo, nội gián Trọng Thủy-Mỵ Châu vẫn là tấm gương lớn cho hậu thế luận cổ suy kim. Giặc bên ngoài và bè lũ tay sai nội gián bên trong đã và đang gặm nhấm, bào mòn truyền thống yêu nước chống xâm lược của dân tộc, các anh chị chưa thấy sao? Nếu quả thật văn kiện bí mật từ Hội Nghị Thành Đô năm 1990(5) có thật, vì Đảng và Nhà Nước Việt Nam vẫn còn ngậm miệng nín khe trước sức ép dư luận trong nước [xem thêm Kiến Nghị của 61 vị nhân sĩ tướng tá QĐND Việt Nam năm 2014], thì chúng ta chỉ còn không tới 5 năm để lên tiếng phản kháng và để nuôi hy vọng dân tộc Việt Nam sẽ thoát khỏi ách thống trị Đại Hán. Các anh chị không cảm thấy quan tâm, áy náy và trăn trở trước vấn đề nghiêm trọng này hay sao?

Nguyện vọng tương lai

Nghĩ lại thời gian đã qua, tôi thầm tiếc nuối cho một đời thanh niên đã bị lừa dối, bị đánh cắp, và cảm thấy rất ăn năn vì đã không trực tiếp góp phần với cuộc đấu tranh đòi lại công lý cho toàn thể nhân dân miền Nam. Tôi cảm thấy xấu hổ khi có lúc đã sử dụng ngôn ngữ tuyên truyền của chủ nghĩa cộng sản một cách vô ý thức. Nay là lúc cần phải phân tích và tìm hiểu cặn kẽ, nhận định rạch ròi xem ai mới chính là những kẻ “phản động, phản quốc, bù nhìn, tay sai ngoại bang”. Như thế là một phần nhỏ góp vào việc viết đúng sự thực lịch sử Việt Nam cận đại, đặt quân cán chính và người dân miền Nam Việt Nam cũng như hàng triệu người tị nạn cộng sản khắp nơi vào đúng vị trí trong lịch sử nước nhà. Lời sám hối của chúng ta có thể là những nhúm lửa nhỏ đốt cháy những ngôn từ tuyên truyền của tập đoàn cộng sản đang tiếp tục lừa bịp nhân dân Việt Nam và cả những thế hệ tiếp nối của chúng ta.

Đường Hàm Nghi – Sài Gòn 1967, ngày ấy tôi đi. Photo: Donald Jellema

Tôi rất mong được đứng nghiêm, chào lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa và cất cao tiếng, hát bài Tiếng Gọi Thanh Niên (Quốc Ca Việt Nam Công hòa) ngày trước. Tôi rất mong được trở về quê hương như một kỹ sư đã nghỉ hưu, đem 40 năm kinh nghiệm ở xứ người góp phần phục vụ đất nước trước khi chết.

Lê Quốc Trinh

Montréal, Canada
4 tháng 3, 2015


(1) 1,642,179 người đã rời bỏ Việt Nam (kể cả người gốc Hoa và người miền núi) đi tị nạn khắp thế giới trong giai đoạn 1975 – 1997. Canada đã nhận định cư cho 163,415 người. Nguồn: Robinson, W. Courtland, Terms of Refuge,United Nations High Commissioner for Refugees, London: Zed Books, 1998 p. 270, 276, Appendix 2; Far Eastern Economic Review, June 23, 1978, p. 20.
(2) Lê Quốc Trinh, Sự thật nằm sau “Bức công hàm Phạm Văn Đồng 1958”, Dân Làm báo, 30/04/2013.
(3) Năm 1957, hãng thông tấn Tân Hoa (New China News Agency) của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa tin “quân đội miền Nam Việt Nam của Ngô Đình Diệm” đã chiếm đóng các đảo Hữu Nhật (Robert), đảo Hoàng Sa (Pattle), đảo Quang Ánh (Money) thuộc quần đảo Hoàng Sa. (Nguồn: South Vietnam Troops Illegally Occupied Chinese Island, NCNA, New China News Agency Peking, March 6, 1957 in SCPM, no. 1486 (March 11, 1957), p.22  trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
Ngày 4 tháng 9, 1958 chính phủ nước CHNDTH công bố Tuyên bố Lãnh hải 12 hải lý kể cả các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như Bãi Macclesfield (quần đảo Trung Sa). Ngày 22 tháng Hai, 1959, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trả lời Trung Cộng bằng hành động, Hải quân VNCH đã đến đảo Quang Hòa bắt 82 ngư dân Trung Hoa (sau đó đã trả tự do) và một tháng sau đó lại khẳng định chủ quyền của Việt Nam một lần nữa, cũng tại đảo Quang Hòa. (Nguồn:Statement of the Ministry of Foreign Affairs on the Encroachment upon Our Territorial Sovereignty and the Capture of Our Fishermen by the South Vietnamese Authorities, February 27, 1959, in Chung-hua jen-min kung-ho-kuo tui-wai kuan-hsi wen-chien-chi, vol. 6, 1959, pp. 27-28; Further Statement by the Ministry of Foreign Affairs of the People’s Republic of China Protesting the Illegal Acts of the South Vietnamese Authorities on the Encroachment of Our Territorial Sovereignty, Capture and Mistreatment of Our Fishermen, April 5, 1959, ibid., pp. 37-38 trích dẫn lại trong Hungdah Chiu & Choon‐Ho Park (1975): Legal status of the Paracel and Spratly Islands, Ocean Development & International Law, 3:1, 1-28).
(4) Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Gonzlio Facio, Chủ tịch HĐ Bảo an LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2142 UN/VN và 2143 UN/VN. Thư của Đại sứ Nguyễn Hữu Chí gởi ông Kurt Waldheim, Tổng thư ký LHQ, Văn phòng Quan sát viên Thường trực, Việt Nam Cộng hòa, tại Liên Hiệp Quốc, Số 2144 UN/VN.
(5) Nguyễn Trọng Vĩnh – Mặc Lâm (RFA), Hậu quả sau hội nghị Thành Đô? 
RFA, 2012-10-09

11 BÌNH LUẬN

  1. Tiến sĩ sử học Hoàng Ngọc Thành :“Trước cảnh tượng các tướng cầm quyền chỉ làm tay sai cho ngoại bang, hết Pháp rồi đến Mỹ, với mặt trái của Cộng Sản Hà-nội và con người cá nhân ông Hồ Chí Minh được phơi bày, hình ảnh tổng thống Diệm là con người yêu nước, chống cả Cộng Sản và thực dân, dù Pháp hay Hoa Kỳ, hy sinh tất cả để bảo vệ chủ quyền, với nếp sống đạo đức cá nhân, đã trở nên đáng kính hơn bất cứ nhân vật hiện đại nào từ 1945 đến nay.
    “Đời sống của tổng thống Ngô Đình Diệm không được dài lâu và ông không được hưởng lạc thú trên đời. Nhưng dân tộc Việt Nam sẽ nhớ lâu dài đến người yêu nước Ngô Đình Diệm .
    “Làm Thủ tướng rồi Tổng thống , ông Ngô Đình Diệm lòng đầy nhiệt huyết phục vụ quyền lợi của dân tộc. Ông làm việc suốt ngày và 7 ngày một tuần, cả năm hầu như không nghỉ. Ông muốn làm tất cả mọi việc chính trị, quân sự, kinh tế, ngọai giao v.v… từ việc lớn đến việc nhỏ ( “Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm”- Tiến sĩ sử gia Hoàng Ngọc Thành)

  2. Giám đốc Sở Thông tin Huê kỳ John Mecklin : ” Tổng thống Ngô Đình Diệm đã tự sát chính trị hơn là khuất phục áp lực của Hoa kỳ mà Tổng thống Diệm cho là vi phạm chủ quyền Việt Nam …Công việc mà chính phủ Hoa kỳ làm tại Việt nam là thiết lập một chính quyền trong bóng tối, để điều khiển tất cả hoạt động về mọi mặt của Miền Nam Việt Nam . Chính sách áp đặt chính phủ và nhân dân Việt nam phải tuân hành theo quyết định của Hoa kỳ là chính sách thực dân mới”.

  3. (Trích) *Nhà báo Anthony Trawick Bouscaren trong cuốn “The Last Of The Mandarins: Diem Of Vietnam” đã phê bình Tổng thống Diệm như sau:

    “Lịch sử sẽ cho thấy Tổng thống Diệm quá nhân từ nên không sống được trong bầu không khí quyền lực năm 1963. Ông không nhẫn tâm đủ để bắt giam và xử tử những quân nhân phản loạn và thay chúng bằng những người trung tín. Ông đã mất quá nhiều thì giờ để cố gắng tìm cách xoa dịu những Phật tử không có thể nào xoa dịu được. Thậm chí ông không trục xuất những phóng viên Mỹ bị xúi làm bậy, là những kẻ thù ác độc của ông… Sự ôn nhu của ông đã khuyến khích sự làm loạn “.

    *Năm 1958, ông Hà thúc Ký ( được đề cử làm tổng bí thư đảng Đại Việt Cách Mạng năm 1965) vì bất đồng chính kiến với chính phủ Ngô Đình Diệm và vì có liên quan đến vụ biến động Ba Lòng ở miền Trung, bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam. Bác sĩ Nguyễn Tuấn Anh (tiểu bang Louisiana)- thầy thuốc riêng của tổng thống Diệm- cho biết ông Diệm chỉ thị cho bác sĩ Trần Kim Tuyến mỗi tuần hai lần đến chăm nom sức khỏe cho ông Hà Thúc Ký.
    Ngoài ra, ông Diệm còn mật lệnh cho ông Cao Xuân Lĩnh ngầm giúp đỡ tài chánh cho bà Hà Thúc Ký để có phương tiện cho các con ăn học.
    Trong tác phẩm Sống Còn Với Dân Tộc , nhận định về cá nhân tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Hà Thúc ký cho biết cá nhân ông khi còn là sinh viên đã từng ngưỡng mộ ông Diệm. Ông có cảm tình với ông Diệm vì hành động từ chức thượng thư vì không không muốn bị lệ thuộc vào thực dân Pháp. Và cho đến nay, ông cho biết mỗi khi nghĩ đến việc tổng thống Diệm bị sát hại thì cái thiện cảm mà ông đã dành cho ông Diệm lúc thời sinh viên lại trở lại. Ông cho biết mỗi khi nghĩ đến tổng thống Diệm, ông vẫn bùi ngùi tiếc thương cho con người suốt đời nặng lòng lo toan cho đất nước.

    *Ông Nguyễn Ngọc Huy- thuộc đảng Đại Việt, đã sống lưu vong tại Pháp từ 1956-1963, đã nói: ‘’Tôi không đồng ý cách hành động của ông Nhu. Nhưng tôi công nhận ông Nhu là một người khá, ông không bao giờ giết hại những người có lập trường chống Cộng, có tư cách…dù họ đã âm mưu dùng võ lực để lật đổ chính quyền Diệm. Khi ở Pháp về vào năm 1963, tôi đã gặp được đầy đủ các đồng chí của Đại Việt như anh Hà Thúc Ký, anh Đoàn Thái dù họ đã bị Nhu giam giữ lâu năm’’.
    Ông Huy về sau sáng lập đảng Tân Đại Việt và Phong trào Quốc Gia Cấp Tiến .

    *”…Thân phụ của Hồ chí Minh là cụ Nguyễn sinh Sắc qua đời ở Cao Lãnh ( tỉnh Kiến Phong). Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chỉ thị ngôi mộ của ông cụ được chăm sóc tốt. Đó là một nghĩa cử đẹp của ông Diệm đối với đối thủ chính trị của mình là Hồ chí Minh.

  4. (Trích) Vụ đánh bom dinh Tổng thống ngày 27 tháng 2 năm 1962 do hai phi công tên là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc:

    Phi công Nguyễn Văn Cử, về sau cưới vợ, được TBT CS Nguyễn Văn Linh yểm trợ cho cả đoàn xe rước dâu, rất linh đình, Nguyễn Văn Cử, sống tại Mỹ, thường xuyên đi về VN.

    Phạm Phú Quốc (PQP): Sau khi bị bắt, Phạm Phú Quốc dù bị giam, nhưng được đối đãi tử tế; song đã có rất nhiều tin đồn, cộng thêm với một số tờ báo bất lương nên đã tuyên truyền rằng:
    “Phạm Phú Quốc đã bị hành hạ, tra tấn, đánh đập suốt cả ngày lẫn đêm, không cho ăn, không cho ngủ, đã bị mật vụ dùng kìm rút hết mười móng tay và mười móng chân…”
    Chính vì thế, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã phái sĩ quan tùy viên Lê Châu Lộc, đến tận nơi gặp Phạm Phú Quốc, để nhìn thấy tận mắt trên thân thể, cũng như xem mười chiếc móng tay và mười chiếc móng chân của Phạm Phú Quốc có bị rút hết hay không?
    Tuân lệnh của Thổng thống Ngô Đình Diệm, ông Lê Châu Lộc đã đi đến tận nơi để gặp Phạm Phú Quốc.
    Khi giáp mặt Phạm Phú Quốc ông Lê Châu Lộc đã tự giới thiệu:
    “Tôi Đại úy Lê Châu Lộc, sĩ quan tùy viên của Tổng thống, được lệnh của Tổng thống đến đây để gặp ông”.
    Phạm Phú Quốc, hình như không thể tin những lời của ông Lê Châu Lộc, nên vội đứng lên một cách nghiêm chỉnh. Nhưng ông Lê Châu Lộc đã nói tiếp:
    “Tôi Đại úy Lê Châu Lộc, sĩ quan tùy viên của Tổng thống, được lệnh của TT đến đây để gặp ông; nhưng không phải để điều tra về ông, mà TT bảo tôi đến đây để thăm ông. Vậy, tôi chỉ muốn hỏi ông: Ông có bị ai đánh đập, tra tấn hay không, để tôi về trình lại cho TT hay về những gì tôi đã mắt thấy, tai nghe, chứ tôi không hề tra vấn ông bất cứ một điều gì cả?
    – Dạ không.
    – Ông có bị tra vấn không cho ngủ, không cho ăn hay không?
    – Dạ không.
    – Như vậy, xin ông vui lòng cởi bỏ y phục, cho tôi nhìn tận mắt, để biết trên thân thể của ông có bị thương tích gì không.Và Phạm Phú Quốc đã làm theo yêu cầu của tôi, vì thế, tôi đã nhìn thấy toàn thân thể của Phạm Phú Quốc không hề có một vết tích nào gọi là “tra tấn” cả. Nhưng tôi vẫn hỏi tiếp:
    – Ông có bị rút hết mười cái móng tay và mười cái móng chân hay không?
    – Dạ không.
    – Vậy, ông hãy bỏ hai bàn tay của ông lên bàn tay của tôi, để cho tôi nhìn thấy, rồi sau đó, là mười ngón chân của ông.
    – Dạ, xin Đại úy hãy nhìn xem.
    Sau khi nhìn và sờ lên tay chân của Phạm Phú Quốc, tôi không hề thấy có một chút vết tích gì hết, Phạm Phú Quốc vẫn khỏe mạnh bình thường, rồi bỗng Phạm Phú Quốc đã nói:
    – Tôi xin Đại úy trình lên Tổng thống rằng: tôi thành thật xin lỗi Tổng thống, vì tôi đã nghe lời của người bạn, nên đã làm như vậy; chứ tôi không có chủ ý giết Tổng thống. Và Phạm Phú Quốc đã viết những lời xin lỗi Tổng thống Ngô Đình Diệm, trên một mảnh giấy nhỏ, và nhờ trình lên Tổng Thống.
    – Tôi sẽ trình lại với Tổng thống.”

  5. Vào lúc 3 giờ sáng ngày 2/11, đại tá Nguyễn văn Thiệu mở nhiều đợt tấn công với thiết giáp và pháo binh vào dinh Gia Long. Nhưng các cuộc tấn công ấy đã bị đẩy lui. Cuối cùng, đã phải cầu cứu trung tá Nguyễn cao Kỳ cho phi cơ bắn phá thành Cộng Hòa để áp đảo tinh thần những binh sĩ phòng thủ dinh Gia Long.
    Hồi 5 giờ sáng ngày 2/11, binh sĩ trong dinh Gia Long kéo cờ trắng đầu hàng, sau khi được lệnh bằng điện thoại của ông Diệm.

    Cựu phụ tá chính trị Nguyễn văn Ngân của Nguyễn văn Thiệu thuật lại : Hàng năm đến 1/11, ông Thiệu
    có xin thánh lễ cầu hồn cho cố tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu tại dinh Độc-Lập. Ông Thiệu có kể cho
    tôi về sáng 2/11/63 sau khi thanh toán mục tiêu dinh Gia-Long, ông về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu
    và sau đó có ra lệnh cho lính mở bửng thiết vận xa để chào thi hài ông Diệm, Nhu trước khi về nhà

  6. Tôi đã đọc nhiều bài viết của anh LQT, anh ấy là người lương thiện và có lòng yêu nước, lòng tự trọng.
    Lũ lợn đỏ bẩn thỉu hãy xéo đi nơi khác, cúi đầu làm lợn làm chó thì không xứng bình luận về anh ấy. Cầu chúc anh LQT an mạnh.

  7. Xin Hoan Nghênh anh Trinh về lại với gia đình Ngụy của Anh. Đứa con đi hoang nay lại trở về Nhà!

    “Mỗi lần ngã là mỗi lần bớt dại,
    Để thêm khôn chút nữa trong người” (thơ của anh đảng viên khốn nạn Tố Hữu)

  8. Anh ta đi du học từ 1967. Những suy nghĩ của LQT về các biến động trong nước và sự hoài nghi về chính thể VNCH trước đó không phải là hiện tượng đơn lẻ mà là một khuynh hướng rầm rô với nhiều người lúc đó. Khi viết lên những lời tự bạch với sự hối hận, tôi không nghĩ anh ta mong mỏi sự tha thứ từ mọi người mà đang làm cái việc ít người chịu làm để…thành nhân. Chắc chắn anh ta đã dự liệu trước về phản ứng của bạn đọc và đã tự hiểu rằng sự cảm thông sẽ ít hơn những lời nặng nhẹ chua cay rất nhiều. Tôi nghĩ là LQT sẽ cảm ơn cả hai, người trách cũng đúng mà người hiểu cũng chẳng sai. Tôi biết chắc vô số người đã làm bậy, được mấy ai sẽ thành nhân sau này? Anh ta không biết mình sai chứ không phải cố tình làm việc sai quấy. Cái quan trọng là một khi LQT biết điều đúng và nên làm thì anh ta đã không ngần ngại, quyết tâm làm cho được. Trong chúng ta thì ai sẽ thành nhân? Nó là câu hỏi mà tôi rút ra từ bài viết này, thay cho một lời buộc tội. Tôi không tự cho mình là bồi thẩm đoàn bởi vì tôi đã không thể kết tội nhiều người trước đó. Vâng, tôi có chửi nhưng…ngu không phải là tội, còn…cuồng là bệnh. So, I’m…out!

  9. Nếu không nhận mình có “tội” thì tại sao lại sám hối?

    Không phải cứ bỏ đao xuống là thành Phật. Bỏ đao xuống chỉ giải thoát cho chính mình mà không cứu hay giải thoát được những gì mình đã gây ra. Hoàn toàn không có một sự trả giá nào bởi cái tội minh gây ra thì lời sám hối có giá trị gì không? Hay đây chỉ là một lời “xưng tội” đúng hơn là lời sám hối?

    “Lời sám hối muộn màng”. “Muộn màng” mang ý nghĩa là để cứu mình cả về thể xác và tâm hồn. “Muộn màng” vì đã về già nên không thể làm được gì để chuộc tội mà chỉ biết sám hối. Người đời có thể tha thứ nhưng sẽ không bao giờ quên những gì họ đã làm, đặc biệt khi họ dây dưa vào chính trị làm mất VNCH.

    Trẻ hành động nông nỗi; về già sám hối. Như vậy có gọi là một trí thức? “Nông nỗi” về cái gì cũng có thể tha thứ nhưng về chính trị thì nó không chỉ hại cho thế hệ hiện tại mà hại còn di hại cho cả tương lai của con cháu và đất nước sau này.

    Làm mất nước vì không đủ sức và trí tuệ để giữ nước là “tội” của tất cả mọi người dân quân VNCH, trong đó có cá nhân tôi, nhưng góp sức và trí tuệ tiếp tay cho cộng sản để mất nước thì không thể nói “sám hối” là sạch tội với lịch sử.

Leave a Reply to BBT Hủy phản hồi

Please enter your comment!
Tên