Đại nạn Trung Hoa: Nanh vuốt Trung cộng

7

Sau hiệp định Paris ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ rút hết quân ra khỏi Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tức Nam Việt Nam (NVN). Sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ ở Á Châu sau năm 1973 là cơ hội bằng vàng cho Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hay Trung Cộng vùng lên thực hiện mộng bá quyền tại đây. Mở đầu, Trung Cộng mưu đồ chiếm cho được quần đảo Hoàng Sa để mở đường xuống phương nam.

Từ thời nhà Nguyễn qua thời Pháp thuộc, đến thời Quốc Gia Việt Nam rồi VNCH, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Tại hội nghị hòa bình quốc tế ở San Francsco (Hoa Kỳ) năm 1951, thủ tướng Quốc Gia Việt Nam là Trần Văn Hữu khẳng định lại một lần nữa hai quần đảo nầy là của Việt Nam. Lúc đó, quần đảo Hoàng Sa thuộc địa hạt tỉnh Thừa Thiên.

Bằng sắc lệnh số 174NV ngày 13-7-1961, tổng thống Ngô Đình Diệm chuyển Hoàng Sa qua địa hạt tỉnh Quảng Nam, đặt tên là xã Định Hải, quận Hòa Vang. Ngày 21-10-1969, thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký nghị định số 709-BNV/HĐCP sáp nhập xã Định Hải vào xã Hòa Long, quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Về quân sự, Hoàng Sa do một đơn vị nhỏ địa phương quân tỉnh Quảng Nam luân phiên đóng giữ.

Do tham vọng bành trướng, khi xác định lập trường về hải phận của Trung Cộng là 12 hải lý, Trung Cộng đưa ra bản tuyên cáo ngày 4-9-1958, trong đó điều 1 và điều 4 khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Cộng và gọi theo tên Trung Cộng là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa]. Mười ngày sau, ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), vâng lệnh Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động, vội vàng ký công hàm, tán thành tuyên cáo về hải phận của Trung Cộng, có nghĩa là tán thành hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Cộng.

1.- NHE NANH MÚA VUỐT CHỤP LẤY HOÀNG SA (1974)

Trở lại thời kỳ chiến tranh, từ năm 1969, tân tổng thống Hoa Kỳ là Richard Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” (Vietnamization), trên lý thuyết gọi là chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho quân đội VNCH, nhưng thực tế là để rút quân Hoa Kỳ về nước. Đồng thời Nixon kiếm cách liên lạc trực tiếp với Trung Cộng từ năm 1971, vừa nhờ Trung Cộng áp lực VNDCCH tức Bắc Việt Nam (BVN) ngồi vào bàn hòa đàm, ký kết hiệp ước để Hoa Kỳ an toàn rút quân ra khỏi Việt Nam, vừa kiếm cách tách Trung Cộng ra khỏi khối CS Liên Xô. (Roger Warner, Shooting at the Moon, Vermont, South Royalton: Steerorth Press, 1996, tt. 333-336.) Hoa Kỳ còn cho Trung Cộng biết là Hoa Kỳ không trở lui can thiệp ở Việt Nam.

Hiệp định Paris ngày 27-01-1973 là hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, mà giải pháp chính trị không rõ ràng, theo đó quân đội Hoa Kỳ đơn phương rút về nước. Đáp lại VNDCCH tức BVN thả hết tù binh Hoa Kỳ mà BVN đã bắt giam, nhưng BVN không rút quân khỏi lãnh thổ VNCH. Trong khi lui quân, Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho VNCH. Ngược lại, VNDCCH được các nước cộng sản quốc tế (CSQT) tăng cường viện trợ, nên VNDCCH liên tục tấn công mạnh mẽ VNCH.

Trung Cộng liền lợi dụng hoàn cảnh quân đội Hoa Kỳ rút lui, không can thiệp vào Việt Nam và quân đội hai miền Nam và Bắc Việt Nam mải mê đánh nhau, Trung Cộng đưa hạm đội hùng hậu tấn công quần đảo Hoàng Sa (Paracel Islads) ngày 19-01-1974 trong Biển Đông, dưới vĩ tuyến 17, do VNCH chủ quản.

Trong khi chiến đấu chống cộng sản BVN, quân đội VNCH vẫn cương quyết chiến đấu bảo vệ lãnh thổ Việt Nam, chống lại tập đoàn bành trướng Bắc Kinh. Phải nhấn mạnh là toàn thể quân dân VNCH, từ trên đến dưới, một lòng cương quyết bảo vệ lãnh thổ của tổ quốc kính yêu, chống ngoại xân phương bắc.

Trận Hoàng Sa diễn ra từ 10G.25 sáng ngày 19-01-1974 và sau khoảng hơn nửa giờ chiến đấu, do lực lượng yếu thế, Hải quân VNCH bị thiệt hại nặng, phải rút lui. Hộ tống hạm HQ10 bị trúng đạn không thể cứu vãn. Chỉ huy trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho chỉ huy phó và thủy thủ đoàn phải đào thoát. Thiếu tá Ngụy Văn Thà ở lại Biển Đông, hy sinh thân mạng đền nợ nước.

Dầu vậy, Hải quân VNCH cũng đã gây thiệt hại nặng cho Hải quân Trung Cộng. Hai hộ tống hạm Kronstadt 271 và 274, cùng hai trục lôi hạm 389 và 391 bị thiệt bất khiển dụng. Đô đốc Phương Quang Chính tư lệnh mặt trận cùng bốn sĩ quan cấp đại tá Trung Cộng bị tử thương.

Điều đáng nói là sau trận Hoàng Sa, trong khi dân chúng và chính phủ VNCH quyết liệt phản đối Trung Cộng, thì đảng Lao Động tức đảng CSVN, nhà nước VNDCCH, quân đội VNDCCH hoàn toàn im lặng, đồng lõa với kẻ xâm lăng, vì từ năm 1958, Phạm Văn Đồng vâng lệnh Hồ Chí Minh và lãnh đạo đảng Lao Động, đã ký công hàm thừa nhận Hoàng Sà và Trường Sa thuộc Trung Cộng. Bây giờ nói gì nữa?

2.- BÀI HỌC SÁU TỈNH BIÊN GIỚI (1979)

Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam Việt Nam năm 1975, VNDCCH đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) năm 1976, đổi tên đảng Lao Đông thành đảng Cộng Sản (CS), và đổi luôn chính sách ngoại giao, không còn theo chủ trương đu dây thăng bằng giữa Liên Xô và CHNDTH, mà ngã hẳn về phía Liên Xô.

Ngày 27-6-1978, tại Bucharest, thủ đô Romania, CHXHCNVN gia nhập khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance tức Hội đồng Tương trợ Kinh tế). Khối nầy do Liên Xô thành lập tháng 1-1949 gồm các nước cộng sản Đông Âu là Bulgaria, Czechoslovakia, the German Democratic Republic, Hungary, the Mongolian People’s Republic, Poland, Rumania, U.S.S.R. [Liên Xô].

Trong cuộc họp của khối nầy tại thủ đô Mông Cổ là Oulan Bator từ 27-9 đến 1-10-1978, các nước trong khối COMECON hứa hẹn sẽ giúp CHXHCNVN thực hiện những kế hoạch kinh tế và kỹ nghệ mà Trung Cộng đang bỏ dở. Sau đó, ngày 3-11-1978, Lê Duẩn sang Liên Xô và ký với Leonid Brezhnev, Hiệp ước Hai mươi lăm năm Hỗ tương và Phòng thủ giữa hai nước.

Dựa vào hậu thuẫn của Liên Xô, CSVN xua quân xâm lăng Cambodia, chiếm thủ đô Phnom Penh ngày 7-1-1979. Việc làm của CSVN nhắm hai mục đích: 1) Đối ngoại là bành trướng ảnh hưởng qua Cambodia để mưu làm bá chủ Đông Dương, và kiếm đường đánh xuống Thái Lan. 2) Đối nội là tung các sư đoàn miền Nam qua Cambodia. Các sư đoàn nầy gồm những thanh niên mới tuyển nghĩa vụ quân sự ở miền Nam sau 1975. Tung thanh niên miền Nam qua Cambodia để làm tiêu hao tiềm lực miền Nam, khiến dân chúng miền Nam phải lo chuyện chiến tranh, mà không chống đối chính sách thất nhân tâm của Hà Nội.

Nhà cầm quyền Cambodia lúc đó do Trung Cộng đỡ đầu. Viện cớ CSVN xâm lăng Cambodia, Trung Cộng quyết định trả đũa và dạy cho CSVN một bài học. Bài học nầy không phải thuần tuý vì vấn đề Cambodia. Bài học nầy còn liên hệ đến ba việc: 1) Thứ nhứt, Cambodia là cửa ngõ để Trung Cộng tiến xuống Đông Nam Á. Khi CSVN xâm chiếm Cambodia, có nghĩa là CSVN chận đứng con đường bành trướng của Trung Cộng xuống vùng vịnh Thái Lan. 2) Thứ hai, sau khi bỏ Trung Cộng, chạy theo Liên Xô và ký kết hiệp ước 1978, tập đoàn lãnh đạo CSVN mặc nhiên bỏ luôn những cam kết ngầm với Trung Cộng khi Trung Cộng viện trợ cho CSVN tiến hành hai cuộc chiến 1946-1954 và 1954-1975, mà con số nầy lên đến 20 tỷ Mỹ kim. 3) Thứ ba, tuy bề ngoài Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á tỏ ra chống lại việc Trung Cộng tấn công Việt Nam, nhưng họ cũng ngấm ngầm đồng tình với Trung Cộng chận đứng tham vọng quá lớn của CSVN sau khi CSVN chiếm được toàn cõi Việt Nam năm 1975.

Ngày 7-1-1979 bộ đội CHXHCNVN chiếm thủ đô Phnom Penh của Cambodia, thì ngày 17-2-1979, Trung Cộng đưa trên 200.000 quân tấn công CHXHCNVN ở sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, giáp ranh với Trung Cộng. Có nơi quân Trung Cộng tiến sâu vào nội địa Việt Nam 40 cây số. Sau khi phá nát vùng nầy, quân Trung Cộng rút về ngày 5-3-1979.

Điều đáng nói là trong khi đánh nhau, quân đội Trung Cộng phá huỷ những cột mốc biên giới có từ thời Pháp thuộc, rồi dựng lại những cột mốc biên giới mới. Khi dựng lại, quân Trung Cộng dời nhiều cột mốc biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Có tin cho biết số cột mốc được được chôn từ thời Pháp-Thanh còn nguyên vẹn (nguyên cả cột lẫn vị trí) còn trên dưới 50, số cột mốc thời Pháp-Thanh đã bị dịch vào biên giới Việt Nam là 150-170 chiếc, số cột mốc mới Trung Quốc cho lính mang sang đóng trong biên giới Việt Nam là 60-70, số thất thoát khoảng 15-30. (Việt Báo Online, California: số 2496, ngày 6-2-2002, đăng lại bài của Lý Công Luận ở Hà Nội ngày 4-2-2002.)

3.- BIA SỐNG GẠC MA (1988)

Cuộc chiến biên giới Việt-Hoa là lời cảnh cáo của Trung Cộng đối với CHXHCNVN, nhưng CSVN vẫn lỳ đòn, quyết dựa hơi Liên Xô. Trong khi đó, Trung Cộng gây chiến đường bộ bị thế giới phê phán hay phản đối, Trung Cộng liền kiếm cách khác để tiến xuống Đông Nam Á. Đó là đường biển mà Trung Cộng đã thử nghiệm năm 1974 khi đánh chiếm Hoàng Sa.

Từ Hoàng Sa, Trung Cộng nhìn xuống quần đảo Trường Sa (Spratly Islands), trãi từ vĩ tuyến 6 độ Bắc đến vĩ tuyến 12 độ Bắc và từ kinh độ 111 độ Đông đến 117 độ Đông, gồm hàng trăm đảo lớn, nhỏ, rạn cát và đá ngầm, san hô. Về hành chánh, Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa-Vũng Tàu). Tại hội nghị San Fracisco (Hoa Kỳ) năm 1951, thủ tướng Quốc Gia Việt Nam là Trần Văn Hữu lên tiếng xác nhận là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, thì không có nước nào phản đối.

Tuy nhiên, khi việc khai thác dầu khí trên Biển Đông càng ngày càng phát triển, các nước Philippines, Trung Hoa Dân Quốc, Malaysia, Brunei, Trung Cộng “nhào vô kiếm ăn”, tranh giành khai thác các đảo trong quần đảo Trường Sa. Mỗi nước chia nhau đóng giữ một số đảo. Đến cuối thập niên 80, CHXHCHVN đóng giữ 21 đảo, cồn và rạn san hô, trong đó có đảo Sin Cowe Island (Sinh Tồn) ở trung tâm quần đảo Trường Sa. Đảo Sinh Tồn có các dãy đá quan trọng là Johnson Reef (Gạc Ma), Collins Reef (Cô Lin), Lansdown Reef (Len Đao).

Đầu năm 1988, Trung Cộng dòm ngó và khiêu khích, muốn lấn chiếm các dãy đá nầy. Đáp lại, CHXHCNVN mở chiến dịch Chủ quyền 88, viết tắt là CQ 88, gởi bộ đội đến bảo vệ và đem vật liệu tới nhóm đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao, để xây dựng các cơ sở tại đây, cắm cờ nhằm chứng tỏ các đảo nầy đã có chủ. Toán bộ đội xây dựng nầy không mang võ khí, trừ vài người chỉ huy và được lệnh “bất kỳ giá nào cũng không được nổ súng.” Đó là lời của Nguyễn Văn Thống, một bộ đội sống sót sau trận Gạc Ma xác nhận với phóng viên Đài Á Châu Tự Do. (Mặc Lâm, RFA, 2015-03-13, “Ai ra lệnh không được nổ súng trong trận Gạc Ma?”)

Ngày 14-3-1988, Trung Cộng phái quân đổ bộ các đảo nầy, tấn công các tàu vận tải của CSVN, ngăn chận bộ đội và giựt cờ CHXHCNVN. Vì có lệnh từ cấp trên là không được nổ súng chống trả, nên bộ đội CSVN chỉ làm bia sống hứng đạn Trung Cộng, tử trận 64 binh sĩ Hải quân, mất ba tàu vận tải.

Một câu hỏi mà mọi người đều đặt ra là ai đã ra lệnh cho bộ đội CSVN không được nổ súng chống cuộc tấn công của quân Trung Cộng? Mãi cho đến 25 năm sau, trong cuộc tọa đàm kỷ niệm cuộc chiến Gạc Ma do Trung tâm Minh Triết tổ chức tại Hà Nội, thiếu tướng Lê Mã Lương, anh hùng Lực lượng võ trang CSVN, từng giữ chức giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, mới tiết lộ như sau: “… Vào tháng 7/2013, tại hội thảo “Những vấn đề về chủ quyền Gạc Ma trong quần đảo Trường Sa” do giáo sư Nguyễn Khắc Mai – Nguyên phó Ban Dân vận Trung Ương, Chủ tịch Trung tâm Minh Triết Việt Nam chủ trì gồm 60 nhà nghiên cứu nổi tiếng và nhà báo. Tôi đã phát biểu nguyên văn như sau: “…Có đồng chí lãnh đạo cấp cao ra lệnh bộ đội ta không được nổ súng nếu như (Trung Quốc) đánh chiếm đảo Gạc Ma hay bất kỳ đảo nào ở Trường Sa.” “… Trong một cuộc họp của BCT, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch (Phó Thủ Tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao) đập bàn ai ra lệnh bộ đội không được nổ súng?…”. (Trích nguyên văn lời thiếu tướng Lê Mã Lương trong bài “Thiếu tướng Lê Mã Lương phản hồi cáo buộc của thiếu tướng Hoàng Kiền về đề nghị thu hồi cuốn sách”, của Tuấn Khanh, điện báo Tiếng Dân ngày 14-07-2018.)

Câu nói trên của thiếu tướng Lê Mã Lương gồm hai vế: 1) Bộ đội CS ở Gạc Ma được lệnh của cấp cao là không được nổ súng. 2) Sự giận dữ của Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng bộ Ngoại giao CHXHCNVN khi họp bộ Chính trị đảng CSVN.

Thiếu tướng Lương không nêu đích danh cấp cao nào là người ra lệnh không được nổ súng, nhưng ai là người có quyền ra lệnh cho bộ đội CS nếu không phải là bộ Quốc phòng, hay đảng ủy đảng CS bộ Quốc phòng? Vào thời điểm năm 1988, bộ trưởng bộ Quốc phòng CSVN là đại tướng Lê Đức Anh, ủy viên bộ Chính trị đảng CSVN.

Tiến sĩ Nguyễn Khắc Mai giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Văn hoá Minh Triết, xác nhận rõ hơn lời của thiếu tướng Lê Mã Lương: “…Ngài Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hồi bấy giờ là ngài Lê Đức Anh đã ra cái lệnh như vậy mà anh Lê Mã Lương đã tường thuật trong hội thảo tưởng niệm Gạc Ma của chính Trung tâm Minh Triết tổ chức ở Khách sạn Công đoàn năm ngoái, thì bây giờ ta phải công khai cái này. Một Bộ trưởng Quốc Phòng thấy giặc nó xâm lấn bờ cõi của mình mà ra lệnh không được chống lại, đứng im như thế cuốn cờ lên người mình để cho nó nã súng nó bắn! (Mặc Lâm, bài đã dẫn.)

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên là thiếu tướng bộ đội CS, ủy viên dự khuyết ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động, đại sứ CHXHCNVN tại Trung Cộng từ 1974 đến 1987, nói thêm về vụ nầy như sau: “…Tôi cho rằng lúc bấy giờ ông Lê Đức Anh được đưa lên làm Bộ trưởng Quốc phòng mà làm cái việc như thế là một việc phản quốc. Ra lệnh không được bắn lại để cho Trung Quốc nó giết chiến sĩ của mình như là bia sống thì tôi cho đó là một hành động phản động, phản quốc. Ông Lê Đức Anh là cai đồn điền cao su của một người tình báo của Pháp chứ ông ta không phải tham gia cách mạng lâu dài gì đâu. Chẳng qua ông ấy khai man lý lịch rồi thì được lòng ông Lê Đức Thọ, ông Lê Đức Thọ cứ đưa ông ấy lên vù vù trở thành Bộ trưởng Quốc phòng, sau này thành chủ tịch nước. Cái điều đó những người biết chuyện như tôi lấy làm đau lòng lắm và cho là một nỗi nhục của đất nước.” (Mặc Lâm, bài đã dẫn.)

Lê Đức Anh, bộ trưởng Quốc phòng CHXHCNVN, phải chịu trách nhiệm về lệnh bộ đội CSVN trấn giữ Gạc-Ma không được nổ súng chống quân Trung Cộng, nhưng chắc chắn trước khi ban hành lệnh nầy, Lê Đức Anh phải tham khảo ý kiến hoặc được chỉ thị từ lãnh đạo bộ Chính trị đảng CSVN.

Lúc đó bộ Chính trị đảng CSVN gồm có: Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư) , Phạm Hùng (số 2), Võ Chí Công (số 3), Đỗ Mười (số 4) Võ Văn Kiệt (số 5), Lê Đức Anh (6). Nguyễn Đức Tâm (số 7), Nguyễn Cơ Thạch (thứ 8) … Vậy không phải chỉ một mình Lê Đức Anh phản quốc như thiếu tướng Lê Trọng Vĩnh đã nói, mà ít nhứt có sự đồng thuận phản quốc của mấy tên lãnh đạo chóp bu đảng CSVN, từ Nguyễn Văn Linh đến Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh.

Cũng theo lời thiếu tướng Lê Mã Lương, khi họp bộ Chính trị, Nguyễn Cơ Thạch, bộ trưởng Ngoại giao CHXHCNVN, giận dữ đập bàn hỏi ai đã ra lệnh không được nổ súng, nhưng không có ai trong bộ Chính trị trả lời. Bộ Chính trị đảng CSVN cũng không quyết định mở cuộc điều tra ai là người đã ra lệnh tồi tệ dó, và vấn đề êm xuôi cho đến ngày nay. Thứ cấp của Nguyễn Cơ Thạch trong bộ Chính trị đảng CSVN vào hàng thứ 8, đứng sau cả Lê Đức Anh (thứ 6), nên Nguyễn Cơ Thạch chỉ “lẻ loi một mình”.

Sau năm 1991, Lê Đức Anh lên làm chủ tịch nước, còn Nguyễn Cơ Thạch bị loại khỏi bộ Chính tri đảng CSVN, tức một bên lên (thăng chức), một bên xuống (giáng chức). Sự thăng giáng nầy giải thích rõ thêm nội tình cấp cao về trận Gạc Ma trong đảng CSVN.

KẾT LUẬN

Sự khiếp nhược của lãnh đạo đảng CSVN trước nanh vuốt Trung Cộng trong trận Gạc Ma năm 1988 cho thấy đảng CSVN bắt đầu thấm đòn thù của Trung Cộng. Lúc đó, tình hình Đông Âu đang biến chuyển mạnh, các nước CS tại đây sắp sửa sụp đổ. Liên Xô cũng bị yếu thế. Các lãnh tụ đảng CSVN bắt đầu âm thầm chịu khuất phục trước nanh vuốt kẻ xâm lăng, nhằm giữ vững chế độ CSVN. Trung Cộng không còn chờ đợi gì hơn, sẵn sàng đón nhận kẻ quy hàng tại hội nghị Thành Đô năm 1990.

Xin đừng quên lời hô hào của Mao Trạch Đông ngày 28-6-1958 với một nhóm tướng lãnh thân cận rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (“Now the Pacific Ocean is not peaceful. It can only be peaceful when we take it over.”) (Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.) Phát biểu nầy là khởi đầu cho chủ trương của Trung Cộng về Biển Đông và Thái Bình Dương. Sau đó, tại cuộc hội đàm với đại biểu đảng Lao Động tức đảng CSVN, ở Vũ Hán năm 1963, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Tôi sẽ làm chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông nam châu Á.” (Nxb. Sự Thật, không đề tên tác giả, Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Hà Nội: 1979, tr. 16. Sách nầy xuất bản sau cuộc xâm lăng của Trung Cộng năm 1979.)

Mao Trạch Đông mở ra con đường xuống Biển Đông bằng chiến dịch đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, khởi đầu giấc mộng Đông Nam Á. Sự quy hàng của CSVN sau trận Gạc Ma giúp cho các lớp lãnh đạo Trung Cộng sau Mao Trạch Đông, tiếp tục thực hiện giấc mộng của Mao Trạch Đông nhanh chóng hơn, nhe nanh múa vuốt, nuốt trọn Biển Đông.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 16-07-2018)

7 BÌNH LUẬN

  1. Cộng xạo VN ngày nay còn tồn tại bất kể bị chửi rủa tốc mùng tốc váy là do Tàu cộng còn chống lưng bằng nhiều cách.Để đổi lại đám diệt cộng này phải ngoan ngoãn nghe lời và cai trị đất nước theo sự chỉ đạo của Tàu .Có thể nói Tàu là cha ghẻ tàn ác nhưng giàu có và thâm độc mà diệt cộng rất sợ!

  2. Nói cho cùng thì VN trước sau gì cũng chỉ là một con chốt thí trên bàn cờ quốc tế. Ba tên đầu sỏ quốc tế Nga, Mỹ, Tàu đều đã nhúng tay vào máu của nhân dân VN và đều đạt được mục đích. Đừng thắc mắc tại sao Mỹ ruồng rẫy đám quần thần VNCH lơ láo đang tị nạn ở Mỹ, trong số đó không thiếu gì những thành phần tinh hoa nhất, không những là của cộng đồng VN hải ngoại mà còn là của nước Mỹ, mà lại giả mù, giả điếc, bao che cho bạo quyền CSVN, cho chúng mặc sức hoành hành.
    Xin thưa: trí thức VNCH đã quá biết những đòn phép đểu giả của Mỹ, dùng họ thì người Mỹ chỉ tổ lấy gậy ông đập lưng ông!
    Còn bọn giòi bọ ở Mỹ Đình, có trí thức lắm cũng chỉ đủ để làm nghề tay sai cho người khác, nhất là những kẻ có tiền, có thế lực.
    Chiến tranh VN cho thấy, người Mỹ đã biết thế nào VNCH cũng sẽ mất vào tay CS, nhưng phải mất như thế nào để có lợi cho họ. Người Mỹ đã tính đúng: họ nhảy vào VN, hy sinh gần 60,000 tử sĩ, nhưng đổi lại là làm cho thế giới CS (Nga-Tàu) bị chia rẽ, chủ nghĩa CS phá sản, Liên Xô và khối CS Đông Âu sụp đổ và rốt cuộc là quy hàng thế gìới tư bản mà người Mỹ không phải tốn một viên đạn!
    Người Mỹ cũng biết trước sau gì VN cũng sẽ mất về tay TQ, nhưng một lần nữa, họ lại tính toán là phải mất VN như thế nào để có lợi cho họ. Họ bắt buộc phải dùng cái đám giòi bọ lúc nhúc ở Mỹ Đình, một bọn ngu xuẩn hèn hạ chỉ biết bo bo thủ lợi, thì mới may ra đạt được mục đích.
    Những gì mà Mỹ, Nga và TQ “đấu” nhau hiện nay chẳng qua cũng chỉ là những trò dàn cảnh tạo căng thẳng trong những vùng “nóng” và làm các phe tranh chấp phải đổ tiền đổ của ra để trang bị võ khí. Phải dàn cảnh như thế thì cả Mỹ, Nga, lẫn Tàu mới xử lý hết số vũ khí thặng dư của họ. Để đến khi xử lý, mặc cả chính trị xong xuôi thì Mỹ, Nga, Tàu sẽ bỏ rơi bọn tay sai xét ra không còn có lợi cho họ nữa, trong số đó chắc chắn có cả bọn giòi bọ ở Mỹ Đình, cũng như người Mỹ đã bỏ rơi VNCH năm xưa.
    Đừng trách tại sao người Mỹ, người Nga, người Tàu là những kẻ vô tình, vô cảm trước những đau thương mất mát của dân tộc VN!
    Hãy tự trách tại sao đất nước mình từ vua Quang Trung cho đến nay, sao không có lấy một nhân tài có đủ hùng tài, đại lược và có viễn kiến để lèo lái vận mạng đất nước và dân tộc VN qua khỏi những cơn bão tố của lịch sử!

    • Chào bạn Lý Chính Luận,

      Trích lời phe bình của bạn:“..từ vua Quang Trung … không có lấy một nhân tài … có viễn kiến lèo lái vận mạng đất nước … qua khỏi những bảo tố của lịch sử!”(ngưng trích).

      Nhìn phiến diện đoạn trích chê trách rất đúng, nhưng tìm hiểu kỹ sự thật lịch sử thời thập niên 1940 sẽ thấy lời phê bình đó sai và rất dễ làm lợi cho cộng sản.

      Sự thật cho thấy dù đồng thuận hay không chúng ta phải công nhận nhà Nguyễn có công thống nhứt đất nước, mở mang bờ cõi đến Cà Mau làm nồi gạo đầy nuôi sống cả nước . Vị thế địa chính của VN tốt nhứt Đông Nam Á mà gần đây cố TT Lý Quang Diệu đã từng công nhận như vậy.
      Đến đời Tự Đức sai lầm, bế quan tõa cảng, cấm đạo, lùng bắt giáo sĩ và giáo dân, tạo cớ cho Pháp đánh chiếm VN 80 năm. Tuy vậy, trong cái rủi có cái may là thời Pháp thuộc đời sống, mức độ văn minh, quyền tự do (dù còn hạn chế), … vẫn không thua các nước láng giềng. Đặc biệt là trình độ văn hóa khá hơn nhờ tiếp cận văn minh Pháp. Bảo Đại cũng được du học và tiếp cận văn minh Pháp, ông không hành xử theo kiểu võ biền. Bởi, võ biền chỉ mang lại chết chóc cho dân, đất nước tan hoang, toàn dân nghèo đói. Vua Bảo Đại dùng tài ngoại giao thương thuyết và được Nhựt chánh thức trao trả độc lập, thống nhứt và toàn vẹn lãnh thổ cho Bảo Đại. Chánh phủ Trần Trọng Kim ra đời hợp với nhiều nhân tài bắt đầu phục hưng nước Việt. Không may bị HCM, VN Giáp và băng đảng cộng sản nổi lên cướp chánh quyền. Đau nhứt cho Bảo Đại là một số nhân sĩ, trí thức gốc Quốc gia kể cả dân Bắc thời đó bị cuốn hút vào cao trao “bài phong, đả thực”, đã quay lưng với nhà Nguyễn, tham gia vào chánh phủ Liên Hiệp/VNDCCH do HCM lãnh đạo.

      Mất chánh quyền nhưng Bảo Đại vẫn chưa bỏ cuộc, trong hai năm 1947 – 1949, đã thương thuyết và được đích thân TT Pháp trao trả độc lập, thống nhứt và toàn vẹn lãnh thổ. Hai chánh phủ Nguyễn văn Xuân (tạm thời) và Trần vân Hữu được hình thành, cũng bắt tay vào việc phụ hưng nước nhà . Thế nhưng, một lần nữa, HCM bác bỏ cơ hội tốt này. Hồ, Giáp và bọn lâu la cộng sản tiếp tục 9 năm kháng chiến dẫn đến trận điện Biên phủ, nướng hàng trăm ngàn dân Bắc vào lửa đạn một cách sai lầm, không cần thiết nếu không muốn nói là quá NGU DẠI.

      Qua phần ngắn gọn trên cho thấy Bảo Đại có đủ thông minh và VIỄN KIẾN chứ không phải là vị vua chỉ biết ăn chơi, đàng điếm, bán nước cho Pháp. Lỗi là do những người quá ham quyền, bị dụ vào cao trào “bài phong, đả thực” như nói trên đã dẹp bỏ nhà Nguyễn và chánh thể Quân Chủ Lập Hiến, nên đất nước và dân tộc chúng ta mới tan nát như hôm nay.

      Bạn Lý Chính Luận đọc thêm bài (nguồn) dưới đây của Dân Nam tôi, sẽ có thêm thông tin:

      Những Mốc Lịch Sử Quan Trọng Khởi Từ Thập Niên 1940 – Dân Nam
      http://www.trinhanmedia.com/2012/10/nhung-moc-lich-su-quan-trong-khoi-tu.html

      Cám ơn bạn và độc giả .

      Dân Nam
      20/7/2018

      • @Dân Nam: Bài của tôi quả chỉ là một ý kiến, một cái nhìn cá nhân cho nên đã không tránh phần phiến diện, nhưng rất hân hạnh đã được bác chiếu cố. Cám ơn bác đã đọc và góp ý.

  3. Theo tạp chí The Diplomat số ra đầu năm ngoái, năm 1972, Nixon- Kisssinger bắt tay hòa hoãn với Tàu cộng hy vọng Tàu cộng sẽ không còn là nguồn gây khuấy rối nền hòa bình thế giới nữa. Nixon cũng hy vọng khi Tàu cộng được có những cơ hội buôn bán, giao thương với nhiều quốc gia,Tàu cộng sẽ từ từ cải hóa thành một nước dân chủ. Để lấy lòng Tàu cộng, Nixon báo hiệu cho Liên xô rằng Hoa kỳ sẽ ra tay chống Liên xô nếu Liên xô gây chiến với Tàu cộng. Nixon cho rút Hạm Đội 7 ra khỏi hải phận Đài Loan và đề ra kế hoạch từ từ rút quân đồn trú khỏi Đài Loan. Nixon tỏ ra ủng hộ ý tưởng One China nếu Tàu cộng sau này thu phục được Đài Loan một cách hòa bình.

    Rốt cuộc, vào lúc cuối đời,năm 1994, Nixon than thở với William Safire – người phụ tá thường viết diễn văn cho Nixon, rằng “ Chúng ta có lẽ đã tạo dựng ra một con quái vật”.

    Tạp chí này cũng viết rằng sau khi Nixon bắt tay Mao trạch Đông, Tàu cộng vẫn thàn nhiên cung cấp vũ khí, quân dụng cho Hà nội tiếp tục chiến tranh xâm lược miền Nam.

    Vào năm 2000,William Safire viết rằng sau vài chục năm qua, Mỹ đã giao thương buôn bán với Tàu cộng, đã giúp Tàu cộng mua được những hỏa tiễn M-11 của Nga, đã giúp Tàu cộng tiếp nhận được những tiến bộ về điện toán cũa Mỹ , thế nhưng thực trạng ở Tàu cộng ngày nay là Tàu cộng bắt bớ hàng ngàn người Pháp Luân Cộng , Tàu cộng đe dọa sát nhập Đài Loan bắng quân sự, Tàu cộng phá hủy nền văn hóa của xứ Tây Tạng.

  4. Năm 2011, Dân Nam có viết comment MỸ TRỞ LẠi Á CHÂU và LỘ TRÌNH HOA KỲ : http://www.rfavietnam.com/node/1273#comment-5238, đăng trên RFA và vài trang mạng khác kể cả Dân Làm Báo. Nhân đọc bài của sử gia Trần Gia Phụng nhắc lại Mỹ rút quân, bỏ VNCH, Dân Nam xin đăng lại comment cũ, chia làm 3 phần) thử đoán mò LỘ TRÌNH HOA KỲ: giải thể cộng sản Á châu và cs Cu Ba. Hy vọng lời đoán mò sẽ xảy ra như dự liệu.

    MỸ TRỞ LẠi Á CHÂU và LỘ TRÌNH HOA KỲ – Phần 1
    Trung cộng trỗi dậy là mối nguy to lớn nhứt cho Hoa kỳ và thế giới tự do, mà chính dân Mỹ và khối tự do rất lo ngại.

    An ninh và Kinh tế là hai yếu tố quan trọng để sống còn của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, Mỹ có nhu cầu trở lại Á châu – Thái bình dương là nơi đang phát triễn để giúp Hoa kỳ phục hồi kinh tế trong lúc kinh tế Âu châu bị suy thoái trầm trọng và lâu dài. Đối với Hoa kỳ thì hai yếu tố đó còn quan trọng hơn, bỡi không có người Mỹ nào muốn cho dân da vàng Hán tộc làm bá chủ thế giới, đẩy dân da trắng Mỹ nói riêng và Âu châu, Mỹ châu và Úc châu nói chung vào thế đàn em. Do đó, có lẽ lộ trình Mỹ phải đi để dứt điểm khối cộng Á châu mà Dân Nam đã thử đoán trước đây, rất có thể sẽ xảy ra trong thời gian tới. Đó là:

    Sau đệ nhị Thế chiến, có 37 nước Á Phi (kể cả VN) được trao trả độc lập, thống nhứt mà không cần tốn xương máu. Hoa kỳ đại diện cho phe tự do giúp bảo vệ và kiến thiết nhiều nước nhược tiểu, thí dụ Phi luật Tân, Singapore, Tây Đức, Đài Loan, Nam Hàn và VNCH, v.v, giúp áp dụng mô hình chánh trị Tự do, Dân chủ, Đa đảng, Đa nguyên và Tam quyền phân lập như Hoa kỳ. Nhựt cũng được Mỹ bảo vệ và giúp phục hưng. Mỹ không chủ trương xâm lăng bất cứ quốc gia nào. Do đó trong trận nội chiến Triều Tiên, Hoa kỳ không nhân cơ hội tiến qua giải phóng Bắc Hàn. Trong trận chiến VN, Hoa kỳ cũng không chủ trương tiến quân ra Bắc.

    Thời chiên tranh VN, chủ nghĩa cs càng ngày càng mạnh, Hà Nội hiếu chiến làm Hoa kỳ khó thực hiện mục tiêu chận đứng cộng sản và giải thể cộng sản thế giới trong tương lai. Cho nên Hoa kỳ phải đổi chiến lược, tức là bỏ Miền Nam; thực hiện kế hoạch chia khối cộng ra làm hai, dễ tiêu diệt qua hai giai đoạn trong Lộ Trình Hoa Kỳ.

    GIAI ĐOẠN I. Giao Việt Nam cho Tàu, bắt tay cs Tàu (khối cộng đông dân nhứt), giúp dân Tàu ăn McDonalds và uống Coca Cola; tạo đòn ly gián giữa hai khối cộng: Liên sô/Đông Âu – Trung quốc/Việt nam/ Bắc Hàn. Thời điểm đó Hoa kỳ giúp Tàu cộng tiến lên kẹp một bên nách Liên xô. Mỹ rảnh tay thách đố Liên xô chạy đua vũ khí hạch tâm/star war và giúp phe kháng chiến A Phú Hãn làm cho Liên Xô sa lầy và kiệt quệ kinh tế. Sau cùng cs Liên xô và Đông Âu sụp đổ. Hoà kỳ thắng trận vẻ vang, không tốn một giọt máu. Công lao lớn nhứt giải thể chủ nghĩa cộng sản LX và Đông Âu gồm các vị: Tổng thống Hoa Kỳ R. Reagan, Giáo Hoàng John Paul II, Thủ Tướng Anh bà M. Thatcher, TT Pháp F. Mitterand và phe tự do, cùng với sự tranh đấu kiên cường của ông Walesa (Công đoàn đoàn kêt) làm cho phe cộng sản suy yếu, kiệt quệ. Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô Michail Gorbachev là người rất thức thời, can đảm chấp nhận cải tổ chánh trị, dẫn đến việc cộng sản Đông Âu và Liên xô bị giải thể nhanh chóng và dễ dàng. Cs da trắng khôn hơn cs da vàng ở chỗ không tham lam, cố chấp, độc tài và tàn ác quá độ như cs da vàng. Nhờ vậy cách mạng nhung xảy ra rất hoàn hão, tốt cho cả hai phe Tự do – cộng sản.

    GIAI ĐOẠN II. Sau khi giải quyết xong Trung Đông và Hồi giáo A phú Hãn cùng bọn khủng bố Taliban, Hoa kỳ rút quân, trở lại Á châu để bao vây nửa khối cộng còn lại là Tàu cộng, Việt cộng và Hàn cộng. Nhiều năm nay Tàu làm tên anh chị ăn cắp tài sản trí tuệ thế giới, sản xuất hàng hoá độc hại giết thế giới, kềm giá đồng nguyên thấp giết kinh tế Hoà kỳ và thế giới Tây phương, quậy sóng Biển Đông, ăn hiếp đồng minh của Hoa kỳ là Nhựt, Phi luật tân, Hàn quốc, Singapore, v.v. Từ đó, Hoa kỳ có thêm lý do chánh đáng và chánh nghĩa bảo vệ hoà bình, ổn định Á châu – Thái bình dương để trở lại dẹp 3 thằng cộng sản Á châu. Tổng thống Obama thẳng thừng chê Trung cộng chưa đủ lớn thì Việt cộng và Hàn cộng chỉ là hai đứa bé sơ sinh. Chúng ta chờ xem giai đoạn 2 của lộ trình Hoa kỳ sẽ dẹp cộng sản Á châu ra sao.

    Trong vụ Syria, Tàu và Nga chống LHQ dùng biện pháp quân sự để giải quyết tình hình Syria nhanh hơn. Lý do Tàu muốn Mỹ bị Iran kềm chân vụ hạt nhân và Syria tiếp tục rối rắm để Mỹ chậm trở lại Á châu, con cháu Mao sẽ có lỗ hỏng để thở và lấn áp lân bang được ngày nào tốt ngày đó. Bỡi chung quanh không còn ai là bạn của Tàu cộng, hai thằng con thì Việt cộng phản phúc, Hàn cộng ốm đói chã nhờ được, Miến Điện vừa quay lưng theo Mỹ, đó là thế kẹt của con cháu Mao. Riêng con cháu “bác” Hồ chắc cũng sẽ run, bỡi Mỹ trở lại thì cờ đỏ sẽ bay mất, cờ vàng sẽ được Mỹ dựng lại để cho Hà nội thấy Mỹ không phải là tên dễ đánh, dễ bị lừa đảo. Đồng thời cũng chứng minh cho thế giới thấy Hoa Kỳ chỉ rút lui chiến thuật năm 1975 chứ không thật sự bỏ đồng minh VNCH.

    Thế thì Hà nội nên sớm vứt bỏ HCM, cờ đỏ, đảng và nhà nước cộng sản. Can đảm ôm lấy cờ sao sọc làm bạn và cờ vàng – mang đầy đủ ý nghĩa và truyền thống dân tộc có từ thời Hai Ba Trưng – làm quốc kỳ, hợp với phe tự do tiến lên, lấy lại biển đảo, ải, thác, v.v thoát nạn bị Tàu cộng đè đầu ăn hiếp và thôn tính vĩnh viễn.

    DN thử đoán mò, đúng sai xin quí bè bạn chờ xem. Chánh đạo sau cùng sẽ thắng bá đạo. Đó là luật trời, khó thoát.

    Xin mời đọc thêm
    Những Mốc Lịch Sử Quan Trọng Khởi Từ Thập Niên 1940<a http://www.trinhanmedia.com/2012/10/nhung-moc-lich-su-quan-trong-khoi-tu.html chứng minh VN dưới thời Nhà Nguyễn (Bảo Đại) đã được Nhựt và Pháp trao trả độc lập, thống nhứt và toàn vẹn lãnh thổ mà không cần đổ một giọt máu kháng chiến. Đó là năm 1945 với chánh phủ (Học giả) Trần Trọng Kim ra đời và năm 1949 với chánh phủ Nguyễn văn Tâm (tạm thời) và Kỹ sư Trân Văn Hữu (chánh thức) cầm quyền. Cả hai chánh phủ Quốc gia Việt Nam đều bắt đầu lo phục hưng đất nước. Nếu không bị Hồ, Giáp, Đồng, Chinh, Thọ, Duẫn và cs Bắc Việt nói chung mù quáng, tham tham và độc ác cướp chánh quyền TT Kim và phá bỏ thêm cơ hội độc lập năm 1949 thì VN đã trở thành cường quốc số một Đông Nam Á, như lời tuyên bố của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu.

    Dân Nam
    Nov 2011

    Phần 2

    Năm 2011 viết cmt “Mỹ trở lại Á châu và Lộ trình Hoa kỳ“, vì viết vội, tôi đã không ghi thêm một yếu tố gần như quan trọng nhứt đã giúp Hoa kỳ và khối Tự do hạ gục chủ nghĩa cộng sản, dẫn đến sự sụp đổ của cộng sản Liên xô và Đông Âu. Đó là ngày 30/4/75.

    Trước ngày đó, trên đường VNCH rút quân từ Miền Trung về Sài gòn, cộng quân Bắc Việt thừa thắng, hăng máu đuổi theo, bắn thẳng vào đoàn dân Miền Nam khốn khổ chạy về phía nam. Máu dân Nam từ cụ già, đàn bà đến trẻ thơ vô tội đổ khắp nơi. Người ngã gục, thây chồng chất, thịt da vương vãi khắp nơi, tiếng khóc than của dân lành dậy đất, chết bao nhiêu cũng mặc, cứ liều mình chạy về phía nam, theo Cờ vàng và VNCH. Hình ảnh đó đánh thẳng vào tim óc của đám phản chiến (luôn chống Mỹ và VNCH) và nhân dân thế giới.

    Kế tiếp là cuộc đại di tản khỏi Sài gòn và nhiều nơi khác. Hàng chục ngàn người bất chấp hiểm nguy, tranh nhau leo lên máy bay, lên tàu, thuyền ghe lớn nhỏ trực chỉ ra biển. Hình ảnh hỗn loạn, kinh hoàng, bỏ cộng sản Hà nội chạy đi lánh nạn, đã đập vào mắt thế giới vốn ghét Mỹ và từng nghe theo luận điệu của cộng sản Hà nội thù ghét và chê bai VNCH.

    Sau đó, hàng triệu người Miền Nam vô tù và chết dần mòn trong lao tù cộng sản, mất trắng tài sản. Thân nhân và vợ con của họ đói khổ bị đày đi kinh tế mới, rừng sâu, nước độc chết dần mòn vì thiếu ăn, thiếu thuốc, v.v, kéo theo hàng triệu người tiếp tục liều mình vượt biển, vượt biên, quyết lánh xa cs Hà nội. Hơn nửa triệu người chết mất xác trên biển đã làm thế giới kinh hoàng, thức tỉnh, nhận ra cộng sản là loại khủng bố, là đại họa khiếp đảm nhứt của nhân loại .

    Từ đó phong trào cộng sản thế giới bị co cụm. Dưới mắt thế giới, chủ nghĩa cộng sản trở thành chủ nghĩa khủng bố và diệt chủng, cần phải xa lánh và tiêu diệt. Và cũng từ 1975 về sau, không còn quốc gia nào trên thế giới rơi vào tay cộng sản nữa. Tất cả thoát nạn diệt vong vì cộng sản. Chỉ có Việt Nam thống nhứt “anh hùng” và “đỉnh cao trí tuệ loài người” được hưởng chế độ cộng sản “ưu việt” và được tuần tự giao nước cho Tàu để cầu vinh . Túi “khôn” của cái nôi văn hóa Hà nội là thế đó!

    Những sự thật và hình ảnh dân Miền Nam bị cs Hà nội tấn công, thảm sát, trả thù vô cùng tàn ác, thâm độc không khác nạn diệt chủng, đã giúp Hoa kỳ và khối đồng minh tự do thực hiện thành công Bước I trong Lộ trình Giải thể cộng sản thế giới như đã nói ở Phần 1 trên. Đó là nhờ vào công lao và là sự hy sinh quá lớn của dân, quân Miền Nam VNCH!

    Sự hy sinh khủng khiếp của dân, quân Miền Nam VNCH đã đánh tan Phong trào thiên tả và phản chiến thế giới. Đánh động lòng thương của nhân loại, động đến Trời cao, thế giới tự do hợp nhau đưa tàu ra biển, cứu vớt dân tị nạn Việt Nam. Mở rộng vòng tay giúp đỡ, bảo lãnh, tiếp nhận cho định cư, v.v. Từ đó đại khối dân, quân tị nạn gốc Miền Nam VNCH, may mắn còn sống, được định cư ở hải ngoại. Được thế giới tự do nâng đỡ, an lành làm ăn, học hành cầu tiến mỗi ngày một khá, vững chắc, đạt được địa vị tốt và đóng góp thật tốt, trả lại ơn nghĩa cho quốc gia đã cưu mang họ. Người Việt tị nạn gốc Miền Nam VNCH được các quốc gia sở tại ngợi khen, mang lại danh dự lớn cho tập thể CĐNVTD/QG trên toàn thế giới.

    Trong lúc đó, khối người Việt, đại đa số xuất phát từ Miền Bắc, được ở lại Nga và các nước cựu cộng sản Đông Âu không có mấy người chống cộng. Đại đa số vẫn còn bám cờ đỏ (*), không được may mắn thành công cao và danh dự lớn như khối CĐNVTD/QG gốc Miền Nam VNCH. Tại sao? Phải chăng Thượng đế, Ơn trên, Tổ tiên đã động lòng thương dân Miền Nam VNCH – đã trải qua quá nhiều khổ nạn, đắng cay – giúp vựt dậy tinh thần Quốc gia VNCH của dân, quân Miền Nam, chuẩn bị cho thời hậu cộng sản? Bỡi vì dân, quân Miền Nam VNCH tâm tánh thẳng ngay, hiền lành, nhân hậu, cần mẫn lo làm ăn, học hành cầu tiến và sẵn sàng hy sinh, đổ máu bảo vệ dân và tổ quốc của họ và của quốc gia đã mở rộng vòng tay cho họ định cư.

    Ngày 30/4/75 Miền Nam VNCH mất, dỉ nhiên Cờ vàng phải mất theo. Lúc đó, khó có ai nghĩ Cờ vàng còn có cơ hội được nhắc đến chứ chưa nói là có cơ hội được sống còn. Thế nhưng biểu tượng và tinh thần Quốc gia VNCH và Cờ vàng đã không chết hẳn như Hà nội mong muốn. Trái lại tinh thần Quốc gia VNCH mỗi ngày một trỗi dậy mạnh hơn, được nhiều người – kể cả dân Bắc – nhắc đến, thương mến, ngợi khen và nuối tiếc. Cờ vàng sống mạnh và được giương lên khắp nơi mà tuổi trẻ gốc Miền Bắc như Đặng Chí Hùng, Nguyễn Viêt Dũng, … sẵn sàng, vui vẻ và hãnh diện giương cao. Nhiều thành phố ở Mỹ thông qua đạo luật công nhận Cờ vàng, cấm phái đoàn Việt cộng đi vào thành phố của họ. Việt cộng muốn vào các thành phố Mỹ vừa nói thì phải đi chui! Nhiều quốc gia tự do trên thế giới cho phép Cờ vàng được treo tự do. Chánh khách và cư dân bản địa còn nghiêm chỉnh cùng với dân Việt tự do hải ngoại đứng chào Cờ vàng, chuyện đó khó tin vào ngày 30/4/75, nhưng là sự thật đã đang xảy ra khắp nơi trên thế giới từ sau ngày 30/4/75 đến nay!

    Câu hỏi được đặt ra là tại sao tinh thần Quốc gia Việt Nam với hậu thân là VNCH và Cờ vàng – Hà nội và cả Miền Bắc cộng sản ngày đêm cay đắng chửi rủa là “bọn ngụy”, và cờ “ba que xỏ lá” – không chết luôn? Không những không chết luôn mà mỗi ngày một sống mạnh hơn, kỳ lạ vậy? Phải chăng, có sức mạnh linh thiêng, vô hình nào đó che chỡ, phù hộ cho chánh nghĩa Quốc gia VNCH và Cờ vàng không chết và sẽ sống lại để lật đổ cộng sản? Vứt bỏ bọn cộng sản phá nước, hại dân và bán nước cho Tàu là HCM, VN Giáp, … và nói chung là cộng sản Việt Nam? Rồi sẽ có một ngày Cờ vàng 3 sọc đỏ trở lại Việt Nam làm Quốc kỳ cho VNCH đệ III hậu cộng sản? Giống như sau khi cs Liên xô/Đông Âu sụp đổ, cờ của Nga Hoàng và quốc kỳ cũ của các nước cs Đông Âu đã được chọn làm quốc kỳ Nga và các nước Đông Âu tự do và dân chủ hậu cộng sản.
    Tất cả câu hỏi và sự thật trên, phải chăng đang ứng nghiệm vào Bước II trong Lộ trình Hoa kỳ là giải thể cs Á châu trong đó có cs Việt Nam? Dựng lại VNCH Đệ III, và Cờ vàng 3 sọc đỏ là Quốc kỳ VN hậu cộng sản như lời đoán mò của DN trong comment viết năm 2011?

    Những hiện tượng và câu hỏi đó tùy quí bè bạn và độc giả thử suy nghĩ và đoán tiếp. Đúng sai chưa biết, chờ xem!
    Dân Nam
    Hải ngoại, tháng 6 năm 2015

    PS. Xem thêm: Nữ anh thư Hoàng Kiều Linh xé cờ Cộng Sản Việt Nam tại CH Czech
    https://www.youtube.com/watch?v=xcjRgzZ3bPY

    Phần Kết

    Sau khi giựt sập cs Nga và Đông Âu, mọi người chờ đợi sự sụp đổ của cs Tàu và Á châu, nhưng việc đó không/chưa xảy ra. Trái lại, Trung cộng mỗi ngày một hung hăng, lấn lướt Mỹ và thế giới Tự do. Đặc biệt là khống chế Biển đông, với hàng hoá Tàu gây thiệt hại cho kinh tế Mỹ và khối Tự do.
    Riêng nước Mỹ, dân da trắng vùng quê bị thất nghiệp cao, kể cả dân Mỹ gốc da màu cũng bị ảnh hưởng bất lợi không ít. Lý do là từ Bill Clinton đến Obama nói riêng và Đảng Dân chủ nói chung với chủ trương tả khuynh, luôn dành nhiều lợi thế cho Tàu cộng, và còn phải đưa lưng giải quyết chuyện thế giới, làm cho Mỹ yếu thế thêm. Đó là lý do dân Mỹ da trắng lẫn da màu đã dồn phiếu cho Donald Trump, giúp ông Trump chiến thắng ngoạn mục, chuẩn bị trận chiến dẹp cộng sản Tàu.

    Nhiều người, kể cả truyền thông Mỹ và phe tả khuynh, trong đó có đảng Dân chủ và bà Hillry Clinton, chê Trump là tên khùng điên, không có tư cách, v.v. Nhưng thử nhìn từng điểm sẽ thấy con đường TT Trump đang đi, đang giúp nước Mỹ vĩ đại trở lại, tạo áp lực với phe đồng minh tự nhận thêm trách nhiệm đóng góp, để cùng nhau dẹp bỏ Trung cộng nói riêng và cộng sản Á châu, kể cả Cu Ba, nói chung. Thử nêu vài điểm nổi bật gần đây:

    – TPP: TT Trump dẹp qua một bên. Mỹ không ký, không cưu mang, chỉ thương thảo song phương sao cho có lợi cho Mỹ.

    Khí thải nhà kính (Môi trường): TT Trump dẹp bỏ, không ký tên, mở lại kế hoạch sản xuất than sạch, giúp dân Mỹ nông thôn có việc làm và nguồn năng lượng sẽ rẻ hơn.

    Giới sản xuất Mỹ rút về nước: dựa vào năng lượng rẻ, bắt đầu sản xuất hàng hoá với giá thành rẻ, tạo thêm việc làm cho công nhân thành thị. Đưa thêm kế hoạch sản xuất qua Mễ tây cơ, giá thành hàng hoá sẽ rẻ hơn, giúp dân Mễ có việc làm và không tràn qua Mỹ ở lậu nữa.

    Buộc đồng minh tự lo: Việc Mỹ luôn nay lưng làm mọi thế giới, móc hầu bao cưu mang chi phi cho khối NATO và đồng minh nói chung, sẽ bị cắt giảm, giúp giữ nguồn tài chánh để phục hưng nước Mỹ nhanh hơn.
    Bắt tay nhiều nước Hồi giáo thân Mỹ: Giúp tiêu diệt khủng bố Hồi giáo. Tạo thêm nguồn tiền từ các nước Hồi giáo giàu có đưa vào Mỹ, làm lợi cho Mỹ.

    – Ve vãn Nga: Mớm cho Putin và dân Nga thấy sự bành trướng của Tàu cộng sẽ đẩy Nga vào thế đàn em, bất lợi lâu dài. Mỹ và thế giới nói chung cũng sẽ bị Trung cộng khống chế bằng cách này hay cách khác. Đến lúc đó, với vị trí sát nách Trung cộng, Nga sẽ khó tránh bị Tàu xâm nhập và xâm lấn từ từ.

    Qua vài điểm chánh nổi bật trên, ta thấy TT Trump không khùng chút nào. Ông ta đang tìm mọi cách bao vây Tàu. Khi hàng hoá độc hại của Tàu đi vào chỗ ế ẩm, kinh tế Tàu sẽ rơi vào suy thoái thì Tàu sẽ có loạn. Đó là thời cơ dân Tàu tự động nổi lên dẹp cộng sản.

    Lúc đó VIỆT CỘNG sẽ chết ngay tức khắc. Riêng thằng bé Bắc Hàn và Cu Ba cũng tiêu theo.

    Để giúp TT Trump thực hiện Giai đoạn II, dân Việt trong ngoài nên đoàn kết, quay về với Quốc gia Việt Nam mà hậu thân là VNCH. Giương cao Cờ vàng 3 sọc đỏ – trong nước nếu hoàn cảnh không cho phép, nên dùng duy nhứt màu vàng làm nền với chữ đỏ – nêu cao chánh nghĩa Quốc gia không cộng sản. Nỗ lực đoàn kết, tập trung lực lượng lật đổ cộng sản. Đừng vì đảng phái, tôn giáo, phe nhóm, khuynh hướng, địa dư,… rồi dùng nhiều biểu hiệu với màu sắc lung tung, chỉ tạo cho cs lợi thế lũng đoạn và dập tắt.

    Hy vọng sự đoán mò trên sẽ có kết quả sớm.

    Xin ghi cảm nghĩ riêng: Đọc lại lịch sử cận đại, dù ghét hay thương, đồng ý hay không, chúng ta đều phải công nhận Nhà Nguyễn có công thống nhứt giang sơn. Dân Miền Nam đã đổ máu, mồ hôi và nước mắt giúp chúa Nguyễn khai mở Miền Nam đến Cà Mau, làm nồi gạo đầy nuôi sống cả nước. Dù không may bị Pháp đô hộ, nhưng thời Pháp thuộc dân Việt vẫn được no cơm ấm áo, được làm chủ đất đai, tài sản… với nhiều quyền tự do, được học hành với nhiều người thành đạt cao, v.v. Đời sống và kinh tế, kể cả trình độ văn mình VN không thua nhiều nước láng giềng, nếu không muốn nói là có phần hơn. Thời Đệ I và II VNCH vẫn tiếp nối truyền thống Tự do và Nhân bản của Quốc gia Việt Nam, giương cao Cờ vàng 3 sọc đỏ, xây dựng nước nhà, giúp cho dân được an lành, tự do và no ấm với Sài gòn là Hòn ngọc Viễn đông. Sự thật đó là động cơ thôi thút đồng bào trong và ngoài nước hãy tập trung dưới ngọn Cờ vàng 3 sọc đỏ như đã nói trên.

    Thân chào và đa tạ bất cứ ai giữ vững tinh thần Quốc gia và Cờ vàng 3 sọc đỏ.

    Dân Nam
    June 6, 2017

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Tên