Tôi vừa trải qua hơn một tháng ở Việt Nam. Như mọi năm, tôi vẫn về quê ít nhất một lần, và lần nào cũng có những kỷ niệm đẹp. Nhưng chuyến đi này đặc biệt hơn cả. Gia đình và bạn bè dành cho tôi rất nhiều ưu ái, nhiều đến mức kể cả một tháng cũng chưa hết. Những kỷ niệm ấy, nếu có dịp, tôi sẽ kể dần dần.
Thế nhưng, khi vừa đặt chân đến Paris, tôi đã lao vào viết ngay về một kỷ niệm buồn. Tôi hy vọng các bạn sẽ dành thời gian đọc bài viết này như những bài trước của tôi.
Chiến tranh luôn để lại những tàn dư, những vết thương mà hàng trăm năm sau vẫn chưa lành. Khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, đất nước chìm trong nghèo nàn. Ngay cả bên thắng cuộc cũng còn đói, huống hồ gì bên thua cuộc. Những người khổ nhất chính là các thương phế binh của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Họ không được hưởng bất kỳ chế độ nào từ chính quyền mới, phải lê bước trên khắp đường phố Sài Gòn bán vé số, thậm chí đi ăn xin để tồn tại.
Năm 1999, cuốn sách Những mảnh đời rách nát của hai tác giả Nguyễn Văn Huy và Phan Minh Hiển ra đời tại Houston, giúp người đọc hiểu rõ hơn về số phận bi thương của những thương phế binh VNCH. Tôi cũng đã đọc nhiều bài viết khác về họ, có những lúc không cầm được nước mắt.
Nhưng chiến tranh đã qua đi 50 năm rồi. Về kinh tế, đất nước phát triển hơn nhiều so với thời kỳ hậu chiến. Cái đói giảm đi đáng kể, nhiều mảnh đời rách nát đã trở về với tổ tiên hoặc ít nhất cũng không còn quá khốn khổ.
Ấy vậy mà hôm nay, tôi muốn kể cho các bạn nghe về một mảnh đời rách bươm – còn thê thảm hơn cả rách nát. Điều nghịch lý là, đó lại là cuộc đời của một thương phế binh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Anh Hùng – người lính bị lãng quên
Anh tên là Hùng, sinh năm 1942 tại Hà Nội. Như 99,99% gia đình khác ở miền Bắc thời chiến, nhà anh rất nghèo. Vừa đến tuổi trưởng thành, anh bị bắt lính và đưa vào chiến trường miền Nam. Sau nhiều năm chiến đấu, trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương ở đầu. Kể từ đó, anh không còn được bình thường nữa. Anh được xuất ngũ và trở về Hà Nội như bao thương binh khác.
Không vợ, không con, không được học hành, trí óc lại không minh mẫn, anh chỉ có thể làm những công việc chân tay để kiếm sống qua ngày. Anh chẳng còn nhớ nhiều về quãng đời quân ngũ, cũng không có bất kỳ giấy tờ nào để chứng minh mình là thương binh. Nhiều người muốn giúp anh làm lại giấy tờ để nhận chế độ ưu đãi, nhưng vô vọng. Vì sao ư? Tôi để các bạn tự suy nghĩ.
Tôi đã xa Việt Nam 35 năm. Câu chuyện về anh chỉ còn là ký ức mờ nhạt. Ít nhất 50 năm rồi tôi không gặp lại anh.
Ngày 17/02/2025, sau một chầu nhậu bí tỉ ở nhà hàng Hùng Vương, tôi thong thả đi bộ ra bến xe Kim Mã để về nhà. Bất chợt, tôi nhìn thấy một ông lão tàn tạ ngồi ở cửa bến xe, mắt đờ đẫn nhìn dòng người qua lại. Trước mặt ông là một chiếc hòm nhỏ với dòng chữ “BƠM VÁ XE”.
Tôi sững người.
Là anh!
Tôi không thể nào cầm được nước mắt.
Năm mươi năm – nửa thế kỷ đã trôi qua. Tôi không ngờ có ngày gặp lại một người quen cũ trong hoàn cảnh bi đát đến thế. Anh từng là một người lính, từng cống hiến tuổi trẻ và thân thể cho cuộc chiến, nhưng giờ đây, anh chỉ còn là một cái bóng của quá khứ. Một thương binh không còn trí nhớ, sống cuộc đời nghèo khổ như một kẻ hành khất, mưu sinh bằng nghề bơm vá xe bên vỉa hè.
Tôi lặng người nhìn anh – tấm thân gầy gò, quần áo rách rưới, đôi mắt mờ đục của một con người đã trải qua quá nhiều đau thương. Một người từng hy sinh cho đất nước, giờ lại bị chính xã hội mình phục vụ lãng quên.
Anh không than trách. Anh chỉ cười buồn. Có ngày, may mắn anh kiếm được vài chục nghìn, nhưng cũng có nhiều ngày không được một đồng nào. Mỗi ngày, anh chỉ dám ăn hai bữa, mua ở những quán ăn rẻ tiền.
Anh vẫn giữ phẩm giá của một người lính
Dù rơi vào cảnh bần cùng, anh vẫn giữ phẩm giá của một người lính. Anh không ăn cắp, không đi xin, mà lao động chân chính để kiếm sống. Trong khi những kẻ cầm quyền vơ vét tài sản quốc gia để làm giàu, một người từng hy sinh cho đất nước như anh lại phải lăn lộn kiếm từng đồng bạc lẻ để tồn tại.
Tại sao một người đã hy sinh thân thể cho quê hương lại phải chịu số phận cay đắng đến vậy?
Tại sao những người có công với đất nước, từng cầm súng bảo vệ tổ quốc, khi không còn khả năng lao động lại bị xem như gánh nặng và bị gạt bỏ không thương tiếc?
Xã hội đã quên họ, đã quay lưng với những con người đáng ra phải được tôn vinh, được chăm sóc khi gần đất xa trời.
Chúng ta không thể chấp nhận sự bất công này!
Một đất nước phải biết tri ân những người có công, dù họ thuộc về phía nào trong lịch sử. Những con người như anh Hùng không đáng phải sống lay lắt, bơ vơ giữa dòng đời.
Một chính sách hỗ trợ đúng đắn không chỉ là sự đền đáp xứng đáng mà còn thể hiện lương tri và nhân cách của một xã hội biết tôn trọng những người đã cống hiến.
Tôi mong rằng câu chuyện của anh không chỉ là một ký ức trong tôi mà sẽ là lời nhắc nhở cho tất cả chúng ta.
Chúng ta cần lên tiếng, cần hành động để những người như anh không còn phải sống trong nghèo đói và quên lãng. Nếu xã hội không thể giúp, thì mỗi cá nhân chúng ta có thể giúp bằng một cử chỉ nhỏ: một lời động viên, một ít tiền để anh có cái ăn qua ngày.
Ít nhất, chúng ta có thể trao cho anh sự tôn trọng và lòng biết ơn.
Anh sống như một kẻ ăn mày, nhưng anh có phẩm giá cao hơn nhiều kẻ mang danh sang trọng. Anh đã cống hiến xương máu cho đất nước và chưa bao giờ ăn cắp một xu của ai. Trong khi đó, hàng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến những kẻ có vẻ ngoài đạo mạo nhưng thực chất lại là những tên trộm tồi tệ, chính họ đã đẩy đất nước đến tình cảnh hôm nay.
Đất nước ta có thầy Thích Minh Tuệ – một tấm gương nhân đức, một “vũ khí” tự nhiên đang tiêu diệt những kẻ giả nhân giả nghĩa và bọn tà đạo núp dưới chính đạo.
Anh Hùng cũng là một tấm gương.
Nếu thầy Minh Tuệ tu theo hạnh đầu đà, thì anh Hùng cũng “tu theo hạnh đầu đường”.
Hoàng Quốc Dũng
Tác giả viết nghe như tác giả là một người rất nhân từ ,vậy sao tác giả không về Vn mỗi năm nữa mà hảy lấy tiền vê máy bay đó nuôi anh bộ đội?