Dường như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết, thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một … kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.
Ôi! Tưởng gì chứ chuyện “phiêu bạt” thì nào có khó chi, khi sinh trưởng trong một đất nước chiến tranh và ly loạn. Muốn là được liền thôi. Trời – đôi khi – cũng chiều lòng người, và chiều tới nơi tới chốn!
Những tháng ngày niên thiếu vụt qua như một cánh chim. Tôi bước vào tuổi đôi mươi, đúng vào Mùa Hè Đỏ Lửa, cùng với lệnh Tổng Động Viên. Thế là tôi “xếp bút nghiên để theo việc đao cung.” Hay nói một cách ít kiểu cọ hơn là tôi đi lính.
Sau lính đến tù, với tội danh (nghe) hơi nặng là “cầm súng chống lại nhân dân.” Ra tù, vừa lếch thếch về đến nhà chiều hôm trước, ngay sáng sớm hôm sau ông công an khu vực đã vội vã ghé “thăm” và “nhắc nhở” đôi điều cần thiết:
- Vì không có hộ khẩu ở thành phố nên tôi sẽ phải đi kinh tế mới.
- Trong khi chờ đợi, bắt đầu từ ngày mai, tôi phải sắm “một cuốn sổ đi lại.” Khi đi đâu phải ghi ngày giờ khởi hành với chữ ký xác nhận của tổ trưởng dân phố, và đến đâu gặp ai cũng phải có sự xác minh của viên chức chính quyền ở nơi đó.
- Mỗi tuần phải mang sổ lên phường để công an kiểm tra.
- Mỗi tháng phải đọc kiểm điểm trước tổ dân phố để nhân dân nhận xét và phê bình ưu/khuyết điểm.
Nghe xong, mẹ tôi lặng lẽ móc túi đưa cho thằng con mấy tờ giấy bạc cùng lời căn dặn:
- Thế thì mua luôn cái bút nữa con ạ. Đi đâu, đến đâu cũng phải nhờ người ký thì dắt viết theo luôn cho nó đỡ phiền.
- Dạ.
Tôi cầm tiền bước ra khỏi nhà, ghé vào cái quán nhỏ bên đường mua một ly rượu trắng và mấy điếu thuốc lẻ. Ực xong ly rượu, tôi châm thuốc hút rồi lủi thủi bước đi, vừa đi vừa lầm bầm mấy câu thơ của Thâm Tâm (Mẹ thà coi như chiếc lá bay/ Chị thà coi như là hạt bụi/ Em thà coi như hơi rượu say) và đi luôn cho tới bây giờ.
Mấy chục năm qua, không ít lúc, tôi cũng nhớ nhà mà chả rõ nhớ ai. Bố mẹ đã từ trần từ lâu. Anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ tán cả rồi. Tôi nhớ quê chứ không phải nhớ nhà, chắc vậy.
Tôi nhớ Đà Lạt cùng tiếng mưa đêm rầm rì, thầm thì qua mái ngói. Nhớ những bữa cơm chiều và món con cá nục hấp (chiên vàng rồi mới kho chung với tóp mỡ) cùng những lát ớt đỏ tươi. Nhớ những buổi sáng sớm tuy vẫn còn nằm trong chăn ấm (lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên mái ngói) nhưng biết được rằng cơn bão rớt đã qua, hôm nay trời sẽ nắng tươi vàng.
Đôi khi, tôi cũng nhớ Rạch Giá vào những ngày biển động. Trời sụt sùi mưa, mây mù thấp xám, sóng dạt bờ kè tung tóe. Tôi lần dò đến thành phố này với hy vọng tìm được đường chui, dù chả quen biết một ai và cũng không một đồng xu dính túi.
Ban đêm, tôi thường nằm quấn mình trong một tấm vải nhựa ở chân cầu Đúc. Ngày thì hay đi loanh quanh trong chợ Nhà Lồng. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang nhưng mắt vẫn không rời những chiếc bàn ăn với ước mong có thể kiếm được chút gì còn sót lại trong tô hay trên dĩa. Niềm mong ước rất mỏng manh vì vào thời gian này (những năm cuối của thập niên 1970 – khi phong trào vượt biên đang lên tới đỉnh) thì gần như mọi người đều đói cả, chứ chả mấy kẻ no.
Rạch Giá có một tiệm ăn nổi tiếng (Tây Hồ) ở số 6 đường Nguyễn Du. Tôi thường thập thò trước cửa nhưng không mấy khi chạy vội vào bên trong, ngay khi thực khách vừa buông đũa. Tôi ngượng, đã đành; điều khó đành hơn là ánh mắt thèm thuồng của mấy đứa bé bẩn thỉu, gầy gò đứng cạnh bên. Chúng cũng đang chầu chực “khẩn trương” chả khác chi mình.
Cả đám – chắn chắn – đã không đến nỗi này, nếu tôi không phải là một kẻ bại trận trong cuộc chiến vừa qua. Tôi vẫn nghĩ thế nên cái mặc cảm của kẻ có lỗi đã luôn giữ chân tôi lại, với không ít buồn rầu!
Có lẽ nhờ chút sĩ diện (còn sót) này mà tôi đã được những người chạy bàn “đối đãi cách riêng.” Họ cho tôi cái đặc ân quí giá là được sớt vô lon guigoz ít thức ăn thừa, vào giờ đóng cửa.
Nhờ thế mà tôi biết canh chua cá chẻm của quán Tây Hồ ngon lắm, canh chua cá lóc còn ngon hơn nữa, còn cá rô kho tộ (có lần tôi được hưởng gần cả nguyên con) thì ngon hết biết luôn. Nó ngon đến độ khiến tôi suýt hóc xương chỉ vì nhai vội quá!
Nhiều người nói là ở Mỹ muốn ăn thứ gì cũng có – bất kể là món của Tây, Tầu, Cận Đông, Trung Đông, Viễn Đông hoặc Phi Châu lục địa. Tôi đã lê la qua hàng ngàn quán ăn ở đất nước này nhưng không tìm đâu ra được canh chua cá lóc và cá rô kho cả.
Từ California, muốn tìm lại được hai thức ăn này, phải mất đến hơn 20 giờ bay lận! Xin ghi địa chỉ đây cho người đồng điệu, khi cần: Nhà Hàng Ngon (Preah Sihanouk Blvd 274, Tonle Bassac) Phnom Penh – Cambodia.
Tôi mới ghé đây chiều qua, chiều 29 Tết. Không thể đến vào ngày mai vì 30 quán đóng. Tôi đã bỏ cái thói quen thập thò trước tiệm ăn tự lâu rồi. Bây giờ tôi đàng hoàng thong thả bước vào bên trong, cười đùa thân thiện với những nhân viên (đứng chào khách ngay tận cửa) và không quên đút nhẹ vào túi trên của họ mấy tờ giấy bạc lì xì.
Dù chỉ có mặt xuân thu nhị kỳ, tôi không phải là khách lạ vì khó ai quên được một ông già Á Châu nhưng không nói được tiếng Tầu (tiếng Thái hay tiếng Miên cũng nỏ) luôn vui vẻ đùa cợt, và lúc nào cũng chỉ gọi một thứ thức ăn duy nhất: cá rô kho.
Tôi luôn được tiếp đón hơi quá nồng hậu vì có thói quen over tiping, không bỏ sót một cô hay cậu chạy bàn nào đang có mặt, và cũng không quên người đứng bếp. Chắc các em nghĩ là tôi giầu có và hào phóng, chứ đâu có biết rằng tôi buộc phải trả thêm tiền cho những gô cơm (ngon tuyệt vời) mà mình vẫn còn thiếu nợ ở quán Tây Hồ, từ mấy mươi năm trước.
Phải mất gần nửa tiếng món ăn ruột của tôi mới được dọn ra. Mấy chú cá rô bé bỏng chỉ bằng ba ngón tay thôi, tiêu đen rắc lấm tấm trông giống như mè, thơm phức. Cơm trắng cũng ngạt ngào hương gạo mới nhưng tôi không cảm thấy đói, dù đã uống “khai vị” hơi nhiều.
Ơ cá chiều nay – không dưng – khiến tôi hơi nghèn nghẹn, dù tuổi già hạt lệ như sương. Lại nhớ nhà chăng? Tôi không nhớ nồi cá nục kho vào những chiều mưa Đà Lạt khi mình còn thơ ấu (và còn được sống trong yên ấm) nhưng nhớ những ngày biển động ở Rạch Giá, và lũ trẻ thơ bất hạnh năm nào.
Đứa bé nhất thì nay cũng đã đến tuổi ngũ tuần rồi. Cũng sắp xong một kiếp người đen đủi. Đúng như ước mơ của thời niên thiếu, nửa thế kỷ rồi, tôi “được giang hồ phiêu bạt” qua rất nhiều nơi (những vùng đất văn minh phú túc, cùng những xứ sở lạc hậu nghèo nàn) nhưng chưa thấy đâu mà kiếp nhân sinh lại nhọc nhằn, cay đắng, cơ cực và tủi nhục như ở cái phần quê hương khốn khổ khốn nạn của mình.
Buổi chợ chiều đang nhóm!
Chúng nó đang thâu tóm
Gom tài sản chạy trốn
VinFast một điển hình
Buổi chợ chiều đang nhóm!
Quỷ đất đang cạn dần
Bây giờ đang sắp hết
Chúng cần phải chuyển ngân
Sợ chậm chân sẽ chết!
Đang đến đoạn cuối rồi
Điển hình Dũng lò vôi
Thành Đại Nam văn hiến
Ôi thôi rồi nồi xôi!
Thế nên bọn ngạ quỷ
Bầy đàn loài cộng phỉ
Trốn chạy khỏi thiên đàng
Chuyển tiền qua Âu Mỹ!
Mua vi la biệt phủ
Chúng sống như ông hoàng
Hơn cả thời Trung Cổ
Ăn thịt bò dát vàng!
Chúng nó đang thâu tóm
Bọn Thị Nở Chí Phèo
Buổi chợ chiều đang nhóm
Ta lún sâu đói nghèo!
Nông Dân Nam Bộ
Sau này theo tôi được biết , người sĩ quan đại úy bộ đội người Bắc, chỉ huy quân sự địa phương đóng ở gần nhà thầy , hay đến nhà thầy mượn đủ thứ, từ sách vở đến nồi niêu song chảo, cũng vượt biên lại mang theo vũ khí và khi bị công an biên phòng rượt bắt đã bắn trả lại .Ông ta bị bắt và bị tử hình !
Trong bài hồi ký của mình, Lê Nguyễn tự xưng là 1 quân-cán-chính VNCH đã đi cải tạo, viết về hội trí thức “yêu nước” do Huỳnh Kim Báu làm chủ xị như 1 địa chỉ giúp nhiều người cải tạo trong việc tìm việc làm & hộ khẩu tại thành phố đã được đổi tên (*). Nhà tớ có 5 người “được may mắn” đi học cải tạo, với bạn bè đồng ngũ thân hữu, tính sổ khoảng gần trăm người từng đi cải tạo từ 2-12 năm, trong số đó có nhà văn Phan Nhật Nam . Không 1 ai có được cái may mắn gì ở hội trí thức yêu nước như cái ô Lê Nguyễn nào đó, có vẻ Tưởng Năng Tiến cũng chả có cơ duyên gì với cái hội trí thức yêu Đảng đó nhẩy . Turn out him a lyin sack of xít . Chắc vì vậy mà Thụy My RFI thường đăng bài của ổng trên blog của mình
(*) Báo nước nhà đăng bác sĩ Trần Hữu Nghiệp thân phụ của tiến sĩ Trần Hữu Dũng, chủ trang viet-studies, là người kiến nghị đặt tên Hồ Chí Minh cho Saigon 1 khi Saigon được giải phóng . So, if you ever wonder đứa nào đủ khốn nạn nghĩ ra cái trò dùng tên Hồ Chí Minh để đặt cho Saigon, look no further.
Nếu những bài thấm đẫm tình quê hương kiểu này có tạo nên cảm hứng để trở về Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chia sẻ cái Tết dân tộc với đồng bào dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, các bác Việt kiều hồi hộp nên thủ sẵn Omicron trong túi hành trang của mình . Thế giới có cái gì, trí thức Việt nhà mềnh nằng nặc Việt Nam phải có cái đó .
Những tình cảm trong bài này Lê Học Lãnh Vân gọi là Tình Yêu Quê Hương, cũng theo Lê Học Lãnh Văn, nó khác với Tình Yêu Tổ Quốc . Theo Lê Học Lãnh Vân, Tình Yêu Tổ Quốc bao gồm cả Tình Yêu Chế Độ/Thể Chế & tất cả những gì liên quan với nó, như lãnh tụ, như Đảng Đoàn . Hy vọng bắt đầu từ Tình Yêu Quê Hương, tác giả Tưởng Năng Tiến sẽ có điều kiện để phát triển nó lên thành Tình Yêu Tổ Quốc
Rằng hay thì thật là hay,
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào! (Truyện Kiều- Nguyễn Du)
Tuy rằng “tuổi già hạt lệ như sương”, tôi cũng không khỏi nghẹn ngào khi đọc tâm sự của tác giả. Không thiếu gì người sống cùng thế hệ ấy có chung hoàn cảnh. Nhưng, không phải ai cũng có diễm phúc trang trải món nợ tình đời như cách tác giả đã diễn tả ở cuối bài. Cuối năm được đọc một bài tùy bút hay quá. Cảm khái cách gì! Cám ơn tác giả.
Đọc bài viết của Tưởng Năng Tiến, tôi chợt nghĩ đến cuộc đời của thầy Tùng, Lê Xuân Tùng , dân Sài Gòn,giáo sư ngôn ngữ học, rất thông minh, đẹp trai, hiền và từ bi và cả cuộc đời của tôi .Giống ở chỗ khắc khoải, buồn man mác,yên lặng,thiếu vắng cái gì đó như đời thầy Tùng và học tập cải tạo như đời tôi.Thầy Tùng tuổi ngang với em gái út của tôi .Hồi nhỏ hai người vật lộn , mầy mầy tao tao, giỡn vui hồn nhiên như bao đứa trẻ khác.Năm 1968, lúc thầy được 9 tuổi, cộng quân xé hiệp định ngừng bắn,tấn công vào Sài Gòn, em gái tôi chết vì lạc đạn( lúc đó tôi bận quần thảo với Việt cộng ngoài Huế), thầy không sao.Sau khi em gái tôi chết , thầy trở nên trầm ngâm ít nói lạ thường mặc dù tôi và gia đình ráng phân bua rằng đó là số mạng bằng chứng là thầy không sao và tôi đánh trận ầm ầm cũng không sao !Rồi đến biến cố 1975, như bao sĩ quan khác , tôi phải đi học tập cải tạo .Khi về trắng tay vợ con nheo nhóc luôn bị hù dọa đẩy đi kinh tế mới .Có lúc bí quá tính” làm ẩu”, nhưng thầy biết chuyện khuyên can và cho tôi mượn một số tiền , tôi mua xe xích lô chạy tạm qua ngày.Thời may nảy sinh ra chương trình HO, tôi đúng tiêu chuẩn nên được chấp thuận nhưng phải chờ và thầy bắt đầu dạy tôi và gia đình ngoại ngữ bởi dù có biết chút ít ngoại ngữ nhưng chữ nghĩa trôi phai đi theo năm tháng đời binh nghiệp.Thầy cũng được đi bảo lãnh trước .Sau khi gặp lại bên Mỹ , thầy khuyên tôi nên dành thời gian học lại bởi Mỹ là nước chuộng bằng cấp và cũng để làm gương cho vợ con trong khi thầy sắp xong chương trình sau đại học về ngôn ngữ học và tôi cũng nghe lời thầy , cũng ráng đi học ban đêm để lấy bằng đại học BA mặc dù đầu đã hơi bạc ..Thầy giỏi , đẹp trai , tốt bụng nhưng trông suy tư,nghiêm , ít giao du với ai,ít cười ( không biết có phải vì cái chết của em gái tôi hay không , nhưng hy vọng như thế!) nên nhiều khi tưởng thầy rất khó tính.Điều buồn cười mà chỉ tôi với thầy biết ( bởi lúc đó tôi đứng sát bên )lúc còn ở VN rằng một hôm tay chỉ huy quân sự ở địa phương mà tôi nhớ là tên Bảo , cấp đại úy bộ đội ,nghe nói ở ngoài Bắc cũng đang học nhưng bị động viên vô Nam, nên cũng có chút kiến thức , không hiểu tại sao ngày nào cũng say xỉn , lại thích nói chuyện với thầy chắc thấy thầy ở một mình và rất có kiến thức, không uống rượu, hút thuốc ,hỏi thầy , ” sao ông ít cười quá vậy, bộ tụi quỷ này vô đây làm ông thành như vậy đó hả ?..” và lập tức thầy mỉm cười !
Đoạn chót hay tuyệt cú mèo – “lập tức thầy mỉm cười”. Chú HLQCTCL viết hay quá. Cám ơn hai chú.